(Thụy Khuê)
Tôi nghĩ trong bộ sách này, tất phải có thư
của Bá Đa Lộc (Pigneau de Béhaine). Quả đúng như vậy, thư của Bá Đa Lộc giữ một
phần quan trọng. Dĩ nhiên có những thư ông viết bằng tiếng La tinh, tôi không
đọc được, nhưng phần lớn còn lại là tiếng Pháp.
Những lá thư này, mở ra cho tôi một chân trời
mới, một sự thật văn bản mà những điều đã viết trước đây về Bá Đa Lộc không có,
thậm chí những gì tôi đọc được, hoàn toàn trái ngược với những lời Bá Đa Lộc
viết trong những thư báo cáo với các vị thừa sai cấp trên ở Macao và Roma trong
tập sách này. Câu chuyện dài dòng lắm, ở đây tôi chỉ xin kể vài nét
chính. Ví dụ, Bá Đa Lộc cho biết: Ông đi tầu với Hoàng tử Cảnh về Nam Hà tay
không, không có một thứ khí giới nào, để giúp nhà vua và sau đó cũng không có
tầu bè khí giới nào, được ông vận động đến Việt Nam giúp vua Gia Long -lúc đó
còn là Nguyễn Ánh- cả. Rồi ông mô tả những khó khăn của ông trong triều, bị sự
chống đối của các bà hoàng, mẹ, vợ, vua, vì việc Hoàng tử không chịu cúng lễ tổ
tiên, mà ông gọi là “lạy xác chết”... Ông gặp khó khăn với các quan đại thần,
can vua không để cho Hoàng tử gần cận ông nữa... Bá Đa Lộc đã có định bỏ đi, và
đã thật sự chuẩn bị trốn, khi vua Quang Trung sắp đánh vào Nam, v.v...
Tóm lại, lịch sử đời Bá Đa Lộc do chính ông
ghi lại trong những bức thư này là lịch sử của một người gặp khó khăn và thất
bại, trong những mưu toan của mình, nhiều lúc phải lẩn trốn... khác hẳn với
lịch sử vinh quang của Đức Bá Đa Lộc trong cuốn Monseigneur Pigneau de Béhaine
évêque d'Adran (Đức Giám Mục Bá Đa Lộc) của Alexis Faure in năm 1891, được coi
là cuốn sách mẫu mực cho những người viết sử, trong đó Bá Đa Lộc được tôn vinh
có vai trò “lập quốc” bên cạnh Gia Long, công ông sánh ngang công lao của
Richelieu bên cạnh Louis XIII: Bá Đa Lộc đã cứu sống Gia Long lúc trẻ, đã đem
Hoàng tử Cảnh sang Pháp cầu viện, và đã được Louis XVI chấp thuận đưa quân về
giúp... Rồi Bá Đa Lộc giữ địa vị “tướng quốc” chủ trương mọi việc về chính trị cũng
như quân sự, ông đã đưa những “sĩ quan” Pháp về giúp vua huấn luyện và thành
lập quân đội, xây dựng thành đài, chiến thắng Tây sơn... không có việc gì là
không có tay ông nhúng vào.
Những trang thư trong bộ sưu tập của Launay,
khiến tôi mở mắt ra lần đầu, cũng là lần đầu tiên tôi thấy le lói một thứ ánh
sáng, có thể giúp tôi tìm thấy sự thực lịch sử, mà tôi mong mỏi từ thời trẻ.
Khi được vào trường trung học Gia Long, tôi có hai mặc cảm đối lập: thứ nhất,
kiêu hãnh vì được học trường nữ học lớn nhất miền Nam, nhưng đồng thời, tủi
nhục vì tưởng vua Gia Long là người dẫn quân Pháp về “giày mồ”. Mặc cảm thứ hai
này, trầm trọng và theo đuổi tôi hầu như suốt đời, cho đến năm 2014, khi được
chính mắt đọc những dòng thư do Bá Đa Lộc viết, tôi biết rằng Gia Long không
làm những việc mà người ta đổ vạ cho ông.
Năm 1962, khi sang Pháp du học, tôi đã gặp
biết bao cảnh ngộ vui buồn. Nhưng đáng kể nhất là những ngày ở trường, thày dạy
và bạn bè đối xử rất tốt. Chính họ đã xoá hẳn ác cảm đối với người Pháp thực dân,
mà tôi đã tiếp nhận qua sách vở. Tôi biết ơn bà thày lý hoá, bỏ bữa ăn trưa để
kèm ba đứa học trò Việt mới sang, chưa thạo tiếng Pháp; tôi biết ơn những đứa
bạn đã tận tình ghi “cua” giúp, trong những ngày tháng đầu tiên, vì tiếng Pháp
i-tờ của tôi. Một đứa đưa tôi về nhà ăn Noël, trong không khí gia đình đầm ấm,
tựa như người mình ăn Tết. Ai cũng tử tế và săn sóc tôi, nhất là bà nó, bà cụ
coi tôi như cháu cụ, không phân biệt gì cả. Không khí trọn vẹn hạnh phúc, nếu
như cả nhà không gọi tôi một cách âu yếm là “la petite indochinoise”. Tôi không
dám sửa lời người lớn, chỉ nói với con bạn: “Tao là người Việt, không phải
người Đông dương”. Nó cười xuề xoà: “Nhằm nhò gì ba cái vặt vãnh, mày là người
gì cũng thế, tao biết là được rồi!”
Trong cảnh được thương yêu chiều chuộng đó,
tôi nhận thấy ý nghiã của cái nhìn: bà và mẹ nó luôn luôn nhìn tôi với ánh mắt
yêu thương rất mực, nhưng không chỉ yêu thương, mà còn có thêm một chút gì như
thương hại, nhất là khi họ chép miệng nói với những người hàng xóm: “Tội nghiệp
con bé Đông Dương!” Mấy lời ngắn gọn ấy dường như bao hàm ý nghiã: “Tội nghiệp
con bé chưa được là người như chúng ta, nó là người Đông dương. Người Đông
dương là một thứ dưới người”.
Ánh mắt thương hại của bà cụ, ân nhân đầu tiên
trong cuộc đời du học, đã thấm vào tôi, khiến tôi chấp nhận “mặc cảm Đông dương”
trong suốt quãng đời tiếp nối, cho đến khi đọc được những lời do chính Bá Đa
Lộc viết, năm 2014, in trong tập sách vừa mua. Những lời này đã giải
toả trong óc tôi, “tội cõng rắn cắn gà nhà” của vua Gia Long, mà tôi đã bị đầu
độc, ngay từ khi ra đời, giúp tôi có đủ bằng chứng, để trở lại con người tự do,
không mặc cảm, bởi vì, bây giờ tôi biết rằng triều đại cuối cùng của nước tôi,
là một triều đại rực rỡ, đã được xây dựng hoàn toàn trên hai tay của một thiếu
niên anh hùng: Nguyễn Ánh.
1773, Tây Sơn khởi nghiệp ở Bình Định, thừa
dịp này chúa Trịnh Sâm đem quân đánh chúa Nguyễn, 1775, Hoàng Ngũ Phúc chiếm
Huế. 13 tuổi (1775), Nguyễn Ánh chạy cùng với Định Vương Nguyễn Phước Thuần vào
Gia Định, trong một đất nước loạn lạc lầm than, năm bè, bẩy mối. Năm 15 tuổi
(1777), hai chúa Nguyễn cuối cùng, Định Vương và Tân Chính Vương bị sát hại,
một mình Nguyễn Ánh chạy thoát. Năm 16 tuổi (1778) Nguyễn Ánh chiếm lại Gia
Định, các tướng tôn làm Đại Nguyên Soái. Hơn hai mươi năm sau, Nguyễn Vương
thống nhất nước Nam, tạo nền móng cho một quốc gia hùng mạnh vào bậc nhất trong
vùng Đông Nam Á, mà con ông, Minh Mạng sẽ hoàn thành sứ mạng. Ngày 31-5-1802,
Nguyễn Vương lên ngôi Hoàng đế, hiệu là Gia Long.
Nhưng năm 1962, tôi chưa suy nghĩ sâu xa về
những điều ấy, lúc đó tôi chỉ cảm thấy trong tình thương bao la của người bà
đứa bạn tốt, một bà cụ nhà quê vùng Ardennes tuyết trắng buốt giá, miền bắc
nước Pháp, có trong tia mắt đầy từ tâm, lửa ấm, một ánh thương hại hướng về đứa
con gái “anh-đô-si-noa” bạc phước. Ánh mắt bà cụ với lòng trắc ẩn, khiến tôi
không sao quên được, bởi vì nó không đến từ sự độc ác, hận thù, mà đến từ tình
thương, từ lòng tốt của con người. Nhưng cũng chính nó đã thành thực cho tôi
biết “giá trị” của những người Việt như tôi đối với người Pháp thời ấy. Và
trong bao nhiêu năm, vì ánh mắt ấy, tôi đã chấp nhận số phận “anh-đô-si-noa”,
như một thân phận yếu kém, dưới người, không bao giờ có thể ngoi lên để trở
thành một người như người Pháp, như con Marie-France, bạn tôi, cháu bà cụ.
Mặc cảm này chôn sâu trong lòng tôi, nhiều năm
sau. Đến khi có con, rồi có cháu, tôi mới nhận thấy không có nấc thang cách
biệt nào giữa người và người, giữa các loại người, các màu da, giữa các dân
tộc, chủng tộc. Nhận thức này không thông qua lý thuyết, sách vở, hay các bản
tuyên ngôn nhân quyền, mà nhờ sự quan sát tư chất con người qua chính con, cháu
mình. Sau nhiều năm viết phê bình và nghiên cứu, có những chủ đề dẫn tôi sang
địa hạt lịch sử, lại càng nghiệm thấy, những sự khác biệt này là do đầu óc con
người gây ra.
Sự thắc mắc đầu tiên của tôi là tại sao, tất
cả các sử gia Việt Nam mà tôi đọc được từ nhỏ đến giờ đều đồng lòng “kết án”
các vua nhà Nguyễn: Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức đã “giết đạo” và “bế
quan toả cảng”, không cho linh mục vào giảng đạo và người Âu vào “buôn bán” nên
mới bị người Pháp “trừng trị”, đem quân vào đánh. Chính những trang sử do người
Việt viết, đã bầy ra những “sự thể” này, khiến tất cả người Việt đọc sử nước
mình đều phải nhập tâm: mình mất nước là lỗi tại mình, lỗi tại nhà Nguyễn.
Không thể trách ai được.
Sau khi đã thu thập những tài liệu đáng kể, để
có thể phản bác lại những lập luận trên đây trong sử Việt, mà tôi được học từ
nhỏ, tôi quyết định viết cuốn Vua Gia Long và người Pháp. Lúc đó là năm 2014,
thấy ít ai có thể hiểu mình, ngoài giáo sư Nguyễn Văn Trung. Ông ở Canada, năm
ấy ông còn khoẻ, tinh thần minh mẫn. Tôi điện thoại nói chuyện với ông, và như
thường lệ ông hỏi: “Thụy Khuê đang viết, gì?” Tôi nói: “Em định viết về Vua Gia
Long và đã tập hợp được nhiều tài liệu tốt, có thể dựa vào để bác bỏ những lập
luận cho rằng người Pháp đã giúp vua Gia Long thống nhất đất nước, đặc biệt em
chú trọng đến việc sử gia Maybon và học giả Cadière, là hai người dẫn đầu và mở
đường cho khuynh hướng này. Họ là những người “có thẩm quyền” để truyền bá
thông tin: nhờ người Pháp mà chúng ta mới được “khai hóa”, không chỉ từ năm
1858, khi liên quân Pháp Tây Ban Nha bắn phá Đà Nẵng, mà ngay từ khi Nguyễn
Vương khởi nghiệp, cách đó gần một trăm năm. Em sẽ chứng minh những điều đó là
sai.”
Giáo sư Nguyễn Văn Trung dặn dò: “Phải cẩn
thận lắm, vì đụng tới Cadière là đụng vào cả một nền kinh viện nghiên cứu được
mọi người thừa nhận và có nhà dòng hậu thuẫn cả trăm năm rồi”.
Càng đi sâu vào tài liệu, tôi càng thấy rõ
thâm ý của hai vị học giả và sử gia này: Những điều mà đầu thế kỷ XIX,
Bissachère và Sainte-Croix, là hai người Pháp sang Việt Nam đầu tiên viết hồi
ký để lại, lấy sự bôi nhọ lịch sử nước Nam làm chuẩn mốc. Sách của họ, nếu
không được hai nhà nghiên cứu Cadière và Maybon chép lại và tôn thành sự thật
lịch sử, thì có lẽ đã rơi vào quên lãng như những cuốn sách tồi tệ khác. Nhưng
đến đầu thế kỷ XX, tức là đúng 100 năm sau, những điều họ viết bậy bạ, được hai
vị học giả và sử gia có uy tín này trân trọng trích dẫn, làm nền cho
những bài viết và sách của họ, khiến những sự bịa đặt của Bissachère và
Sainte-Croix trở thành sự thực lịch sử. Và đúng như lời giáo sư Nguyễn Văn
Trung: học giả Cadière và tập san Đô Thành Hiếu Cổ (Bulletin des Vieux Amis de
Huế) là một kinh viện ngự trị trên nghiên cứu ở Việt Nam từ đầu thế kỷ XX đến
ngày nay. Vì vậy, không có gì hữu hiệu hơn, là chính người chỉ huy cơ quan kinh
viện này, điều hành việc trình bày “sự thực lịch sử”: Nhà Nguyễn là do Pháp
dựng nên.
Công lao dựng nghiệp này là do Bá Đa Lộc, từ A
đến Z. Hành trình này được sử gia Maybon xác định và “chứng minh” trong cuốn
Histoire moderne du pays d'Annam (Lịch sử hiện đại nước Nam) (1920) bằng những
giai đoạn:
- Bá Đa Lộc cứu sống Nguyễn Ánh, lúc 16 tuổi,
khỏi bàn tay Tây Sơn.
- Bá Đa Lộc, đưa Hoàng tử Cảnh sang Pháp. Ngày
28-11-1787, Bá Đa Lộc ký hòa ước cầu viện với Pháp. Nhưng khi vua Louis XVI,
không áp dụng hiệp ước này, Bá Đa Lộc tự xoay sở kiếm tiền mua tàu bè vũ khí về
giúp.
- Bá Đa Lộc đưa những “sĩ quan” Pháp vào Việt
Nam, để thành lập và điều khiển quân đội Nguyễn Ánh và xây dựng tất cả thành
đài ở nước Việt, theo kiểu Vauban.
Đọc cuốn “Lịch sử hiện đại nước Nam” của
Maybon, người ta thấy ngay cái ý chủ đạo, soi sáng tất cả: nếu Ba Đa Lộc không
cứu Nguyễn Ánh thoát chết năm 1777, thì không có Gia Long, không có nhà Nguyễn.
Câu chuyện huyễn sử do Maybon viết, được
Cadière tiếp sức, với tư cách học giả, tìm kiếm và khảo sát thêm, để trở thành “sự
thực lịch sử”.
“Sự thực” này sẽ được Cadière chính thức hoá
trên bình diện nghiên cứu, nửa đầu thế kỷ XX, qua tập san Đô Thành Hiếu Cổ. Đến
giữa thế kỷ XX, được đưa vào từ điển Larousse của Pháp, kể từ bản in năm 1955.
Về sự thật lịch sử, chúng tôi đã tìm cách
chứng minh lại, qua các văn bản gốc, trong sách Vua Gia Long và người Pháp, ở
đây chỉ xin vắn tắt vài dòng về việc ai cứu Gia Long: Trong lúc cấp bách,
Nguyễn Ánh chạy cùng với một người hầu, là chú tiểu đồng con hát; người trẻ
tuổi này đã tìm được chiếc thuyền chở chủ đi trốn, đưa đến cha Hồ Văn Nghị. Cha
Nghị và thầy giảng Toán đã chăm nuôi, cứu sống Nguyễn Ánh. Hồ Văn Nghị trở
thành người tin cẩn của vua cho đến khi khi qua đời ngày 19-2-1801, một năm
trước khi Nguyễn Vương lên ngôi Hoàng đế, lấy hiệu là Gia Long, ngày 31-5-1802.
Những việc trên đây cho thấy, chỉ qua một vài
chi tiết nhỏ, người ta cũng có thể tạo dựng “lịch sử” theo đúng hướng người
Pháp thực dân mong muốn: xác định công lao của người Pháp khi đến Việt Nam, qua
công trạng “cứu vua và lập quốc” của Bá Đa Lộc. “Công trạng” này sẽ làm nền
tảng cho “món nợ” lớn lao, khiến người Việt phải “đời đời” mang ơn người Pháp,
và khi họ “vô ơn” với những ân nhân, ngược đãi đạo Gia Tô, họ phải chịu sự “trừng
phạt” của Pháp. “Công trạng” này còn gây tinh thần tự ti mặc cảm trong lòng
người Việt khi đứng trước người Pháp, kể cả các học giả Việt Nam, khiến các vị
này đã chấp nhận tất cả những lập luận sai lầm của học giả Pháp, mà không kiểm
chứng, hoặc thấy mà không dám nói ra. Ở đây tôi chỉ nói đến một vài học giả
Việt Nam, mà không kể đến những nhà nghiên cứu lịch sử sau này, vì quá nhiều.
Đầu tiên hết là học giả Trương Vĩnh Ký, với
cuốn sử Cours d'Histoire Annamite, (Giáo trình lịch sử Việt Nam) in năm 1875,
tại Sài Gòn. Đây là cuốn sử Việt Nam đầu tiên viết bằng tiếng Pháp cho học trò
học. Chúng ta đều biết học giả Trương Vĩnh Ký được đào tạo trong nhà dòng từ
nhỏ, tư tưởng của ông gần gụi với các vị thừa sai. Công lớn của ông đối với chữ
quốc ngữ, không ai chối cãi được, nhưng những điều ông viết trong cuốn Cours
d'Histoire Annamite về nhà Nguyễn, nhất là về vua Minh Mang, thì không thể hiểu
nối.
Vua Minh Mạng, dưới ngòi bút của Trương Vĩnh
Ký, đã làm những việc như thế này: bạc đãi các “sĩ quan” Pháp đã giúp vua Gia
Long dựng nghiệp, tàn bạo và ngược đãi các giáo sĩ, bắt về kinh dịch sách, lúc
không cần, đuổi họ ra biên giới, cho chết dần vì bệnh. Minh Mạng nổi những “cơn
thịnh nộ khốc liệt như bị cái ác lôi kéo vì nóng giận hay vì ghen tuông mù
quáng”: “Tham vọng cầm đầu của ông là vô độ, chính trị lạnh lùng, bất chính,
tàn phũ” đối với các nước làng giềng. Trong gia đình, khi lên ngôi, đã tiếm vị
của hai cháu (con hoàng tử Cảnh), “nghe nói” thông dâm với với chị dâu, khi bà
này có mang, bèn kết bà tội loạn luân với con, và kết án tử hình cả ba mẹ
con... Trương Vĩnh Ký dẫn ra những “tội ác” này, để làm tiền đề cho câu sau: “Sau
những tội ác mà sự vô liêm sỉ và đạo đức giả đen tối nhất, pha trộn với lòng
hiểm ác thâm độc, dường như tranh nhau địa vị như thế, ta có cần phải ngạc
nhiên trước thái độ của nhà vua đối với các sĩ quan Pháp và các vị thừa sai?
Không, dĩ nhiên là không. Minh Mạng, bản chất độc ác, lạnh lùng, đen tối và
gian trá, từ nay có thể làm tất cả, mà biết chắc chắn là không bao giờ quá.”
(Nguyên văn tiếng Pháp: Faut-il après un pareil crime, où le cynisme
et l'hypocrisie la plus noire, se mêlant à la plus profonde scélératesse,
semblaient se disputer la palme, s'étonner de sa conduite envers les officiers
français et les missionnaires? Non, évidemment. Minh Mạng, nature méchante,
froide, sombre et fausse, pouvait désormais tout entreprendre, sûr de ne jamais
aller au-delà)[1].
Không cần bàn đến sự bịa đặt của những thông
tin này mà sự thực lịch sử ngày nay đã rõ ràng. Chỉ nguyên cách đưa những tin “nghe
nói” (dit-on) vào lịch sử và việc phán đoán một người không cùng thời với mình
(khi vua Minh Mạng băng hà, Trương Vĩnh Ký mới bốn tuổi) bằng những chữ: bản
chất độc ác, lạnh lùng, đen tối... là đã thấy rõ cách làm việc của Trương Vĩnh
Ký. Làm sao ông biết được bản chất (nature) của vua Minh Mạng, khi ông không
sống cùng và chỉ biết nhà vua qua những thông tin “nghe nói” (dit-on) mà ngày
nay người ta gọi là những lời “đồn thổi”? Chưa kể ông sẵn sàng bịa ra những
thông tin kiểu “vua Gia Long sai Puymanel và Le Brun xây thành Gia Định”, mà
sau này Nguyễn Đình Đầu chép lại, để chứng minh thành quách Việt Nam đều do
người Pháp xây cả.
Nhưng điều tai hại là những trang sử bôi nhọ
vua Minh Mạng và triều Nguyễn này nằm trong cuốn sách lịch sử đầu tiên viết
bằng tiếng Pháp cho học trò Nam kỳ học và các sử gia Pháp-Việt dùng. Trương
Vĩnh Ký đã “đầu độc” lũ trẻ bằng sự kết tội triều đình, bôi nhọ vua Minh Mạng,
cấp cho trẻ em một cái nhìn sai lạc về triều Nguyễn, về mối quan hệ Pháp-Việt.
Cuốn sách của ông, còn là cuốn lịch sử Việt Nam đầu tiên mà người Pháp đọc
được, như nhiều tác giả kể lại, nên có lẽ chính nó đã làm nền tảng cho những
người đi sau, như linh mục Louis Eugène Louvet, khi viết cuốn La Cochinchine
Religieuse (Đạo giáo ở Nam kỳ), in mười năm sau (1885) có đủ củi lửa để vẽ thêm
chân rết kết án Minh Mạng là bạo chúa Néron. Và Alexis Faure, khi viết cuốn
Monseigneur Pigneau de Béhaine évêque d'Adran (Đức Giám Mục Bá Đa Lộc) in năm
1891, đã tôn sùng Bá Đa Lộc lên hàng Tể tướng bên cạnh Gia Long, như Richelieu
bên cạnh Louis XIII của Pháp.
Vai trò chính yếu của Trương Vĩnh Ký trong
buổi giao thời -mà ông được coi là nhà bác học biết nhiều thứ tiếng- là gì?
Nguyễn Văn Trấn trong tiểu sử Trương Vĩnh Ký, ghi lại những điều sau đây: Ông
được cử làm thông ngôn cho phái đoàn Phan Thanh Giản đi sứ Pháp, về tới Sài Gòn
ngày 18-3-1864, Trương Vĩnh Ký trở lại chức phận thông ngôn ở Soái phủ Sài Gòn.
Người ta giao ông dịch tài liệu cho tờ công báo, chữ Tây, Le Courrier de
Saigon. Số đầu ra ngày 1 tháng Giêng 1964. Người ta cũng đã cho Trương Vĩnh Ký
làm trợ bút tờ Gia Định Báo. Làm từ 1866 tới 1868 được nhắc lên làm Chủ bút
(Quyết định của Pháp soái Dupré, ký ngày 16 tháng Chín 1868). Đồng thời Pétrus
Ký được phong giáo sư và rồi cũng trở thành ông đốc Trường Thông ngôn (Mở từ
16-7-1864)[2].
Kể từ khi phụ trách tờ Gia Định Báo, Trương
Vĩnh Ký đã phát triển và phổ biến đường lối chính thống của người Pháp thực
dân: loại bỏ văn hóa Trung Hoa, chữ Hán, chữ Nôm và độc tôn chữ Quốc ngữ. Công
lao khai phá của ông với chữ Quốc ngữ, không ai chối cãi được; nhưng
công lao này có phải cũng là để phục vụ chính sách của người Pháp: dùng chữ
Quốc ngữ thay thế chữ Nôm và chữ Hán, để cắt đứt người Việt với quá khứ văn hóa
của dân tộc mình?
Hai cuốn lịch sử Cours d'Histoire Annamite,
(Giáo trình lịch sử Việt Nam) in năm 1875, và Biên tích Đức Thầy,
Pinho Quận công (1897) viết về Bá Đa Lộc, phù hợp hoàn toàn với chính sách viết
lại lịch sử của người Pháp thời ấy: Họ muốn công lao dựng nước phải là của Bá
Đa Lộc, và các “sĩ qua”" Pháp, việc mất nước là tội của triều đình: từ
Minh Mạng, đã vô ơn với những người Pháp đến giúp Gia Long, rồi “độc ác, hãm
hại các thừa sai, bế quan toả cảng”... Vì vậy, người Pháp mới phải nhúng tay
vào. Họ muốn tạo cho sự xâm lược của họ một lý do chính đáng, nên mới giao cho
các học giả việc viết lại lịch sử.
Học giả Cadière và Maybon là hai người Pháp “khai
sin”" chiến dịch viết lại lịch sử Pháp Việt, từ nguồn cội, kể từ năm 1912,
khi linh mục Cadière cho in những tài liệu đầu tiên liên quan đến việc người
Pháp đến giúp Gia Long, trên tập san của Trường Viễn đông Bác cổ (BEFEO), số 12
và năm 1917, ông mở rộng địa bàn trên tập san Đô thành Hiếu cổ (BAVH) do ông
làm chủ bút. Đến năm 1920, khi cuốn Histoire moderne du pays d'Annam, của
Maybon ra đời, Cadière giới thiệu và ca tụng nồng nhiệt. Một năm sau, 1921, khi
Thống chế Joffre đi kinh lý Việt Nam, đến Huế, Cadière đã đọc bài diễn văn tiếp
đón Thống chế, nêu cao thành tích rằng mình đã tìm được hết các tài liệu để
chứng minh “sự thực lịch sử”: Công nghiệp của Gia Long hoàn toàn do người Pháp
chủ xướng, từ quân đội đến thành trì.
Tới đây, tôi lại được “sáng mắt” thêm một lần
nữa: Cadière và Maybon không phải là hai vị học giả và sử gia đầu tiên thực
hiện việc viết lại lịch sử Pháp-Việt, mà học giả Trương Vĩnh Ký đã bắt đầu từ
trước, từ năm 1875; với cuốn Cours d'Histoire Annamite, ông đã dẫn đường cho
một số người Pháp, như Louis Eugène Louvet, viết cuốn Đạo giáo ở Nam kỳ (1885),
Alexis Faure viết cuốn Đức Giám Mục Bá Đa Lộc (1891), rồi Trương Vĩnh Ký viết
tiếp cuốn sử thứ nhì Biên tích Đức Thầy, Pinho Quận công (1897) để xác định công
lao của Bá Đa Lôc và các “sĩ quan” Pháp. Charles Gosselin viết cuốn Đế quốc An
Nam (1904) lập lại những điều buộc tội nhà Nguyễn của Trương Vĩnh Ký và kết
luận: “Những hoàng đế này [của nước Nam] phải chịu trách nhiệm sự suy đồi và
sụp đổ của nước họ, phải gánh vác một mình, sự nhục nhã trước lịch sử” (Gosselin,
L'Empire d' Annam, Perrin et Cie, 1904, trang XVII).
Sau Trương Vĩnh Ký, các học giả Việt Nam khác,
cũng không làm gì để lật lại thế cờ. Nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu, trong bài
viết giá trị về lịch sử xây dựng thành phố Sài Gòn và các thành trì ở trong
Nam, đã dùng lại những đồ thị do người Pháp vẽ, họ trình bày thành Gia Định [và
tất cả các thành trì khác trên toàn cõi Việt Nam, từ Huế đến Hà Nội] bằng một
thứ đồ thị có răng cưa, biểu hiệu thành Vauban, trong khi các thành trì Việt
Nam, từ Diên Khánh, đến Huế, Hà Nội, Sơn Tây, tường đều xây thẳng, không có dấu
vết gì Vauban cả. Nguyễn Đình Đầu còn dẫn lời Trương Vĩnh Ký, trong cuốn Biên
tích Đức Thầy, Pinho Quận công, nói rằng: “Tháng 2 trong năm (1790) vua dạy ông
Olivier với ông Le Brun coi xây thành Gia Định tại Tân Khai”. Và ông còn cho
biết, theo lời Trương Vĩnh Ký trong cuốn sách này, thì Bá Đa Lộc trở về Sài Gòn
đem theo “mấy chiếc tàu chở súng lớn cỡ 100 cỗ, súng tay mấy ngàn cây, thuốc
đạn cụ túc (đầy đủ) về giúp vua An Nam”, và “Việc tổ chức và rèn tạo bộ binh
của Nguyễn Ánh là do Olivier de Puymanel, làm lớn đứng đầu hết”[3].
Khi những sai lầm, bịa đặt của người đi trước,
được người sau chép lại như một sự thật không cần kiểm chứng, thì thực khó
hiểu. Tại sao có sự đồng tình mù quáng như thế trong nghiên cứu khoa học?
Năm 1964, học giả Đào Duy Anh hiệu đính và
viết tựa cho cuốn Gia Định Thành Thông Chí của Trịnh Hoài Đức, do Nguyễn Mộng
Khương và Nguyễn Ngọc Tĩnh dịch. Trong bài Tựa, Đào Duy Anh nói đến những thiếu
sót của Gabriel Aubaret khi dịch cuốn sách này sang tiếng Pháp (1864), như
phiên âm sai, không hiểu rõ chữ Hán, nhưng ông không nhắc gì đến việc Aubaret
đã loại hẳn chương Thành trì chí, là chương Trịnh Hoài Đức mô tả thành Gia Định
và các thành trì trong Nam, ra ngoài. Bởi vì, trừ thành Gia Định [là thành cũ
của Cao Miên sửa lại] Trịnh Hoài Đức nói rõ tên từng vị quan phụ trách đắp tất
cả các thành trì ở miền Nam, không có người Pháp nào cả. Việc này không thể “phổ
biến ra ngoài” được, nên Aubaret phải bỏ không dịch! Tệ hơn nữa, trong bài Tựa
sách, Aubaret còn cả gan lên giọng trách Trịnh Hoài Đức đã “vô ơn” không nhắc
đến Giám mục Bá Đa Lộc và các “sĩ quan lỗi lạc”, đặc biệt về việc xây thành Gia
Định, là "công cuộc vĩ đại do Đại tá Pháp Olivier [de Puymanel] thực
hiện"! Sự gian dối của Aubaret, chẳng lẽ Đào Duy Anh không thấy, mà bài
tựa ông viết năm 1964, đâu còn người Pháp nữa, sao học giả họ Đào vẫn không “dám”
nói ra sự gian dối này?
Đến năm 2018, khi tôi về nước, đi thăm thành
Hà Nội và Sơn Tây, bước vào vẫn thấy người ta giới thiệu với du khách, thành
này do Pháp xây theo kiểu Vauban, mặc dù tường thành thẳng tắp, không có chỗ
nào lồi ra, là đặc điểm của thành Vauban. Không hiểu du khách Pháp nghĩ gì về
sự “nhận vơ” đáng buồn này, như thể ta vẫn mong muốn được Pháp đô hộ thêm một
lần nữa.
Trong 60 năm ở Pháp, tôi cố gắng gột rửa đầu
mình khỏi mặc cảm thấp hèn, yếu kém của con bé “anh-đô-si-noa”, trong hành động
cũng như trong tư tưởng, và chỉ thật sự thấy được cân bằng và bình yên, khi
biết rõ về vua Gia Long, về người thiếu niên dũng cảm và kiên định đã tay không
dựng lại cơ đồ, tái tạo một nước Việt Nam thống nhất, sau hơn hai trăm năm phân
liệt.
Cơ đồ ấy, sau gần một trăm năm lệ thuộc Pháp,
đã sản xuất ra những người “anh đô si noa” như tôi, ra đời với mặc cảm bé mọn
thấp hèn trước bất cứ người Âu Mỹ nào. Mặc cảm này đã ăn sâu vào trí óc khiến
cả những người có học, hiểu biết lịch sử cũng không dám cãi lại người Âu, ở
những chỗ họ ngụy biện, gian dối, mà đôi khi còn về hùa với họ trong việc ngụy
trá và ngụy biện lịch sử. Ánh mắt thương hại của bà cụ quê mùa miền Ardennes đã
khiến tôi phản bác lại những sai lầm của một số người Pháp. Riêng những sai lầm
của người mình, thì mình phải tự xử.
Chỉ khi nào, ta bỏ được sự tự hào với những gì
có người Pháp nhúng tay vào, như thể nếu có bàn tay của Pháp, thì mọi thứ sang
trọng lên: “thành trì Pháp xây tất nhiên phải hay hơn thành trì người Việt”, “Sách
Pháp viết chắc chắn đúng hơn sách ta viết”... Chỉ khi nào ta bỏ được những
thành kiến ấy, thì ta mới gột rửa được phần nào đầu óc bị trị.
Đi sau vua Gia Long hơn hai thế kỷ. Dường như
chúng ta vẫn chưa khôi phục được tinh thần tự tin, tự chủ, khi trực diện với
người ngoại quốc mà vị Hoàng Đế đầu tiên của triều Nguyễn đã khai phóng.
(Yên Cơ, Les Issambres ngày 29-5-2022.)
*****
Viết cho buổi tọa đàm về Vua Gia Long, tổ chức
ở Huế ngày 31-5-2022, kỷ niệm 220 năm ngày vua Gia Long lên ngôi Hoàng Đế, đặt
tên nước là Việt Nam.
**************************
[1] Theo bản điện tử điện tử in trên Internet,
trang 168.
[2] Theo Nguyễn Văn Trấn, Trương Vĩnh Ký con
người và sự thật, Ban Khoa Học Xã Hội Thành Ủy, TPHCM, 1993, trang 28-29.
[3] Theo Nguyễn Đình Đầu, Điạ lý lịch sử thành
phố, in trong cuốn Điạ chí văn hoá thành phố HCM, 1987, Nxb TPHCM, trang 183).
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét