BẠT PHƯƠNG NGƯỜI LÊNH ĐÊNH
Hoàng Dục
Cảm thơ Nguyễn Đức Bạtngàn, lắm lúc cứ loay hoay giữa: Lấy người mà hiểu thơ hay Lấy thơ mà hiểu thơ (Lê Quý Đôn). Bởi Bạtngàn mãi thuộc thân của một thời Như giọt mưa xuân, Hương đất, Giã từ ân phúc[1], một thời giảng đường đại học, một thời vẫy vùng trong dòng Ô Lâu, một thời lang thang trên những nẻo đường quê. Dẫu biết thơ là sự thăng hoa cảm xúc của thi sĩ, nhưng ngày xưa không thôi gây nhiễu. Kỉ niệm choáng tâm trí như lớp váng che chắn câu chữ trữ tình, nên trang giấy cứ bâng khuâng trước đèn.
Cũng may, trong hồ đồ tâm thức đã lóe màu tảng
rạng. Những tập thơ: Bình minh câm (1985), Giữa triền hạn reo (1988),
Từ giã ngày (1989), Thơ Nguyễn Đức Bạtngàn (1999) lần lượt
mở trang. Từng trang mở ra, mở ra càng sáng dần. Hình ảnh cái tôi trữ tình càng
hiện hình rõ nét, cảm xúc như mưa hạ mát ngọt ùa về. Vì vậy, thả lỏng tâm
lí để câu chữ thơ cuốn theo điệu chảy, điệu ngân của chính nó. Thế là cứ trôi
theo mạch nguồn thi ca, từ đó, bỗng dậy bừng hình tượng cái tôi bạt phương
người lênh đênh.
Thơ là khúc nôi tự bạch của cái tôi trữ
tình. Mỗi bài thơ vì thế là một giai điệu tâm hồn, một nỗi linh cảm
đời của thi nhân. Mỗi bài thơ đều tỏ lộ và khẳng định thiên tính của người
hát thơ. Đến với thơ của Bạtngàn, dễ nhận ra linh cảm và thiên tính ấy.
Cái tôi trữ tình trong thơ như chưa bao giờ định vị được đời mình.
Cái tôi ấy là cái tôi lãng tử, bước chân cứ lang bạt giữa mịt mù
không gian, nên chỉ cần một thoảng gió cũng động lòng du tử:
gió động cành thanh tịnh
kiếp giang hồ lãng du
ta một đời vô định
ơi phương xa mịt mù
(Dưới rừng dừa Bồng Sơn)
như một lần an nghỉ
con mắt đó nhìn đời
hoe tàn mùa rêu sắc
tóc động tình xa khơi
(Vuốt tóc)
làm ma chong đời mình
chiều cuối năm nặng hạt
rụng phương này lênh đênh
(Tự thân)
một chiều phương tây
trong lòng gió nổi
phương trời chim bay
(Phương Tây)
thì lênh đênh đành trọn kiếp giang hồ
khi đứng lại quá một đời mộng ảo
bóng hạc vàng an giấc giữa tiêu sơ
(Đứng bóng)
nở ngát trời thiên thu
(Pháp thân)
Con người giữa trùng vây lưu xứ, gởi tình vào giấc mơ mây trắng, một giấc mơ không có biên giới thời gian và không gian. Ở đấy, chẳng ai bàn đến tự do mà tự do hiển hiện. Ở đấy, sự rao giảng yêu thương trở nên vô nghĩa bởi yêu thương vốn đã đong đầy. Ở đấy, người cô đơn không còn đi về phía cô độc mà đã hóa thân phiêu bồng giữa trời thu bất tận. Pháp thân là một giấc mơ thơ ca ngọt ngào. Đó là giấc mơ phá chấp hiếm hoi của cái tôi kiêu bạt. Nhưng giấc mơ thơ đâu chỉ có ngọt ngào, lắm lúc cũng nhiều đắng cay. Đó là những khi cái tôi lữ thứ nhìn lại, thấy bóng mình chới với giữa không gian: ta chim trời lẻ bạn/ giữa đường bay điên mê (Mười năm) hay tự bóng mình heo hút giữa thinh không (Tự bóng mây chìm), và cảm giác lạc loài vì vẻ đẹp lãng mạn của tạo vật đã bị đánh tráo bởi sự tàn lạnh nên đành phải phiêu du trong vô hạn thời gian: mùa đông mặc áo mùa thu/ nên ta còn vẫn phiêu du miệt mài (Giữa triền hạn reo). Cho nên, cái tôi cô lữ đớn đau cho đến mút cuối đời người, ở vào sác-na hóa kiếp:
khi hóa kiếp anh hoa này đã lạnh
giờ chung thân phản bội thịt da mình
em ngồi lại nghe đất trời thịnh nộ
ta trần truồng về hát giữa u minh
(Kinh ngục)
buổi sáng theo nhánh cây vươn từ đôi tay em
quấn ôm châu thân anh mềm mại
ân sủng dấy từ đất từ trời
từ bụng từ ngực em
lên tóc lên lông anh
chan hòa mưa nắng mới
ướp hồn anh tinh sương
phủ dấu yêu em
ngào ngạt
(Ngàn
em 4)
Niềm hân thưởng tình ái đã ướp hồn người lữ hành cô đơn bằng những dấu yêu. Tình yêu mật ngọt làm bừng lên ước mơ hạnh phúc trong miền hôn phối ngợp ngời: ngày xưa đã là hôm nay/ làm giàu thêm cho nỗi nhớ thương nhau/ trong thần hồn ta/ bất hoại/ em hãy treo xinh tươi/ lên môi miệng/ ngời ngời/ như hôm nay đã là ngày sau/ hôn phối (Ngàn em 11). Cái tôi phiêu lãng hoan ca và tin chắc vào một tình yêu bất hoại, thứ tình yêu không bao giờ làm quắn héo đời nhau.
Thơ Bạtngàn luôn phập phồng hơi thở tình yêu,
một tình yêu tròn đầy và viên mãn. Nhưng tình lứa đôi lại ẩn chứa những rạn vỡ
nên giọng thơ ngùi xót vì tình vỡ hay tình lỡ. Bởi thế, thơ tình của
Bạtngàn luôn có cấu trúc đối lập, phân li đầy ám ảnh da diết. Đó
là đối lập giữa động và tĩnh: em ngồi lại nghe đất trời thịnh
nộ/ ta trần truồng về hát giữa vô minh (Kinh ngục). Đó là sự đối
nghịch của hai mút không gian: đầu non ta ngã bóng/ cuối rừng em
còn vọng (Lần sau). Đó là tương phản giữa hiện tại và quá khứ,
sự thực và hư tưởng:
nửa đêm tôi gọi ân thù huyệt quan
bóng xiêu hồn ngợp cung vàng
trong cơn mê tỉnh em hoàng hôn xưa
(Ngồi bên mộ T.A.T.)
Có khi là sự đối lập
giữa thời gian và không gian, thậm chí trong nội hàm thời gian cũng có các hiện
tượng không thuận chiều:
bây giờ hoa vẫn
nở
hồng theo bờ đại dương
ta bây giờ vẫn thở
em theo người mù phương
Nhân vật trữ tình “ta” rung động trước ngàn hoa đang bình
thường khoe một sắc hồng rộng rãi để rồi cảm nhận điều bất thường trong tình
yêu giữa ta và em. Đó là sự không cùng hướng của cái bình thường và
điều không bình thường. Ta đang-là
còn em đã-là! Ta cụ thể còn em trừu
tượng! Ta bình thường giữa thời gian còn em bất thường trong không gian! Cái
diệu của bài thơ nằm ở hai chữ “bây giờ”. Từ “bây giờ” làm lạc hướng cảm thụ
khiến người đọc hồ nghi. Nếu bây giờ là thực tại thì ta và hoa giống nhau,
nhưng nếu bây giờ là tâm trạng thì ta khác hoa. Hoa vẫn hồn nhiên mà sống, còn
ta đang hụt hẫng vì em theo người mù phương. Hẳn là thế. Nếu không, bài thơ chẳng
có nhan đề như là lời tự an ủi, như là ủ kín niềm hi vọng mong manh: Lần sau.
Không chỉ cấu trúc thơ tương phản mà ngay cả câu
kết mỗi khổ hay kết bài đều dựng lên hình ảnh không gian cách ngăn, không gian
mù khơi hay không gian lưu đày. Những câu kết trong thơ tình của Bạtngàn tưởng
chừng như những đê bao ngăn không cho sóng tình lan tỏa. Tình yêu vì vậy tưởng
hòa hợp bỗng thành lìa tan, tưởng tròn đầy hóa ra hao hụt.
không có bụi mù sao ta thấy cay trong mắt
ngày tháng năm còn thấy nhau không
nằm xuống
hẹn hò
từ giã ra đi
nghĩa là không còn gì
không còn gì để treo lên ngọn cây
trước sân
không còn gì như những lần nhìn em
đi ngang
ngoài
ngõ
(Từ
giã ngày)
“Không còn gì”
lặp trùng là điểm nhấn về một tình yêu tan vỡ. “Không còn gì” thanh điệu biểu
lộ tâm trạng rã rời trước một tình yêu đã mất. Mới hay câu kết là vách ngăn
tình yêu đầy uy lực. Ở bài thơ Giọt lệ mừng, giọng điệu thơ khẩn cầu, hình ảnh
reo vui hạnh phúc, tưởng tình mãi sâu bền nhưng khép lại bằng nỗi buồn chia li:
xin em quên
buổi sáng ngái ngủ của chúng mình ở
căn nhà
ngoại ô
buổi sáng có bầy chim ca hót ngoài
vườn
buổi sáng có li cà phê đặc đen đậm
cho tình
cho nụ hôn thay tiếng em yêu
rồi từ giã
Tình yêu đẹp như cổ tích. Dù có li tán, tình ái
trong thơ Bạtngàn vẫn thao thiết. Hình bóng người xa vẫn đậm nồng trong trái
tim người chờ đợi. Dẫu có trăm năm, dẫu mòn khung cửa, trái tim yêu vẫn chong
đèn ngóng về phương người xưa. Để rồi cảm nghe hạnh phúc-đau thương của niềm cô
lẻ sau không gian vuông cửa cũ.
còn đó là buồng tim em trăm năm
bùng lên ngọn đèn
chong mòn
vuông cửa đợi
(Cổ tích)
Vuông cửa, một vật tĩnh có linh hồn vừa đồng cảm
với cô phụ vừa là trở lực ngáng bước tình yêu. Không gian vách ngăn tình yêu có
khi mở rộng, dìm những người yêu nhau chìm
theo dưới hơi hướng âm u, xô họ vào tâm
bão động trần gian. Để rồi khi lai tỉnh đành thở dài: nuối mà chi/ mai bể cạn sông mù (Vườn khuya). Bởi giữa Vườn khuya
ấy, từ sự say nồng của chiếc hôn đã vạch ra ranh giới chia lìa hai người yêu
nhau:
từ giấc ngủ vẫn dậy đầy
sáng tạo
nghe giữa môi hôn này nồng thắm
một
biên cương
Hay với “Cổ thụ trong vườn trí nhớ”, khi
một cành cổ thụ xuyên qua hồn, ta trở thành vườn trí nhớ cứ lặng im
và bất động. Nỗi nhớ về em trong ta xôn xao như lá, còn em:
trên lưu đày cách trở
Ngậm nụ buồn là thầm lặng nhớ, thầm lặng đau.
Ngậm nụ buồn, cũng là “Tĩnh biệt”: thềm
lá động theo triền sương đẫm ướt/ vườn
khuya xanh từng dấu mộng thầm thì/ lần
họp mặt cũng là lần tử diệt/ em qua
đời trồng vạn nụ hồng nghi. Tâm trạng đó càng nén chặt hơn khi em thân
đơn giữa lưu đày cách trở. Những câu thơ có sự sẻ chia của một tấm
lòng dành cho một tấm lòng. Mới hay, tình yêu trong thơ Bạtngàn là … một
tình yêu rất sâu/ Rất dữ dội nhưng chẳng bao giờ yêu được hết (Xuân
Quỳnh). Cũng với mạch tư tưởng cảm xúc ấy, Bạtngàn viết:
ngủ trong hồn nghìn sau
em bao giờ thức dậy
giữa tim mình nhói đau
(Hương)
em có còn là tiếng chuông
trên đỉnh trán mòn theo ngón tay khô
làm hình tượng tặng nhau vùng trời quá khứ
trên sợi tóc còn vương se một ý tình hoài
anh sẽ còn gì không sau cuộc đời
lở dở
(Từ
những tấc lòng cũ)
Người theo thời gian đã trôi xa, nhưng tình vẫn
da diết trong từng hơi thở của người trong vườn yêu cũ. Đặc biệt, khi tình
yêu đã thành hôn nhân, thơ Bạtngàn cũng rất nồng nàn mà cũng rất bất
an. Thơ có âm điệu reo vui hạnh phúc:
sống trong nhau thơm hạnh phúc vợ chồng
từ hôm nay là đời ta vĩnh viễn
cùng băng rừng vượt núi qua sông
(Muội Tiên)
Tình yêu không chỉ là nơi náu mình của hồn lữ thứ
mà còn là khát vọng sự sống đến cháy bỏng. Cái tôi cô lữ trong thơ
Bạtngàn không chỉ đắm mình vào đó mà còn thèm khát bình yên trong
tình mẹ nữa. Đời lang bạt, sống mù như ngọn khói (Ngọn nến), nhưng
vọng âm mẹ vẫn dập dồi trong kí ức. Làm sao quên được hình ảnh mẹ khi con tuổi
nhỏ, lúc gia đình dạt xiêu về đất lạ trong bão loạn đời:
con tuổi nhỏ bên sóng gầm tai họa
mẹ ngồi thương sông bên lở bên bồi
trắng cơ nghiệp là lưu đầy xa lạ
bóng cò chiều bảng lảng bóng sông trôi
(Mẹ đã về)
Rồi khi con dung
thân ở xứ người, mẹ ngong ngóng về phương con. Mẹ xót lòng bởi con như chim lẻ
bạn đơn độc nơi đất khách:
mười năm con xa xứ
mẹ còn chong đèn khuya
tìm con, chim lẻ bạn
giữa đường bay phân chia
(Mười năm)
vẫn cánh chuồn ôm mấy đọt bông lau
còn mẹ lại tóc trắng
xuôi dòng sông đổ lệ. Cho nên, con nhìn đâu cũng thấy xót xa, thấy nghẹn tiếng gà quanh ngọn chuối làn
rau. Giọng điệu thơ trầm và nhẹ nhưng ấn dấu nỗi ăn năn của đứa con
lãng tử. Hình ảnh mẹ trong thơ đẹp, giàu cảm xúc và có nét riêng độc đáo: mẹ ngồi thương sông bên lở bên bồi; mẹ ngồi
thân đẫm hoàng hôn/ hai vai quằn quại linh hồn con đau (Tà huy); mẹ tóc trắng xuôi dòng sông đổ lệ,… Cũng
may, người con như trở về tuổi nhỏ được sống bình an trong sự yêu
thương che chở của mẹ. Để từ đó cảm nhận tình mẹ như ngọn lửa thắp
sáng đời con, sưởi ấm lòng con trên bước đời lưu lạc:
đất trời sao lặng im
lá trôi từng bước nhẹ
ngọn lửa hồng trong tim
(Ngọn lửa)
cơn mưa chiều vồ vập ta đau
đêm gió dậy bao vòng lửa rối
một phương trời
hai phương đất trông nhau
(Một phương trời)
Bởi quê người
cảnh lạ tình xa. Làm sao có được những dấu yêu xưa, những thân thuộc cũ. Nhìn
đâu cũng thấy chẳng thân quen, thấy trống vắng, thấy dửng dưng. Lòng rưng rưng
nghĩ cuối đời tóc trắng, quê nhà cũng chỉ là nuối mộng muôn trùng:
ta làm sao có được giọt nắng vàng quê hương
khi chung quanh mình toàn là
tuyết trắng
đâu nhìn thấy dáng thân yêu xưa
dù ta ngẩng cao đầu
là cách biệt đến cuối đời tóc trắng
nuối muôn trùng quê mẹ nắng mưa mau
(Mưa bay)
Cái tôi cô lữ vin
vào tình yêu, tình yêu tan vỡ; tựa vào bóng mẹ, mẹ đã đi xa; dựa vào quê nhà,
quê nhà nghìn trùng xa với. Trong tình cảnh ấy, thi sĩ buốt lòng nên những từ
“nghẹn” cứ dàn ra trong những trang thơ: thân
gió bụi đã xoáy mòn đất trích/ người qua đây sao nghẹn tiếng con đường (Mỗi
bước), còn chi em, buốt nghẹn đáy tim
người (Cổ tích), ngày trở lại nghẹn
chìm trong một thuở (Ngày ngó xuống), nghẹn
tiếng gà quanh ngọn chuối làn rau (Khi con về), đêm bên này nghe buốt nghẹn ơi em (Đã hết), nghẹn chìm tiếng nói (Ngọn nến), nghẹn tiếng hò trong đêm vắng ai nghe (Huế), hoàng liên nghẹn giữa sơn hà (Giữa triền hạn reo),… Thậm chí, hồn
cô lữ tưởng chừng tê dại đến “rũ liệt”: ru
con rũ liệt hình hài/ quê xa vời vợi nghe dài nỗi đau (Ru con), hồn rũ liệt đui mù se thắt (Ta đội nón
quay lưng tình trở lại), có phải em/ quay chùng giữa anh bây giờ mòn liệt (Hạ
tưởng), mai cũng xa mai ngày rũ liệt
(Giao thừa),… Như thế, cái tôi hải hồ, cái tôi phiêu du, cái tôi lữ thứ trong
thơ chẳng được phóng túng giang hồ. Ngược lại, tâm tư đựng đầy tình đau, tình
nhớ, tình nuối giữa phương người lênh đênh.
Thế nhưng, bạt phương người lênh đênh, chỉ là
hồn lênh đênh còn chữ nghĩa chẳng bao giờ chìm nổi! Dọc theo những vần thơ
Bạtngàn, có thể cảm hiểu điều đó. Bạtngàn gởi hứng bút và cảm xúc của
mình vào nhiều thể thơ, nhiều đề tài khác nhau. Và cũng gởi tình vào ngôn
ngữ thơ được chưng cất mang màu sáng tạo riêng. Thi ảnh vì vậy gợi nhiều liên
tưởng. Trường thơ nhờ thế mà sâu thẳm, chạm vào niềm xúc cảm, niềm rung động
trước cái đẹp của người đọc. Riêng ngôn từ thi ca, với Bạtngàn, chân có thể liêu
xiêu phương người nhưng hồn chữ Việt vẫn thẳng dáng, vẫn được cọ mài sáng láng.
Cho nên, đến với thơ Bạtngàn, người đọc có khi hoang mang trước câu chữ tạo ra
hình ảnh lạ. Người đọc bị dẫn dụ vào những lối rẽ ngữ ngôn, những ngã ba, ngã
bảy ngữ nghĩa khiến lạc trôi giữa cõi mơ hồ thi tứ. Phải chăng đó là nét đẹp riêng
của ngôn từ thơ Bạtngàn. Có lẽ là vậy. Làm sao không hoảng hồn khi: Trời mới sáng đã nghe chừng quá ngọ/ thịt da ngần cũng trắng những chiêm bao
(Tiêu dao). Có thể nào không nổi da gà khi Thề
bồi hãy hết cơn đau chưa dứt độ ngân, vậy mà ngày mai tóc rạng lên màu máu khô (Đêm bạc). Và không bâng khuâng
trước phấn hạnh: này phấn hạnh còn về
chăng mỗi bữa/ từ quê hương đêm xót dạ chong đèn (Vĩ Dạ). Hay cụm từ “trầm mê dung hoát” ngân vang/ nghìn sau
thoáng động xa gần căm căm trong “Khỏa thân”. Hay phiêu bồng giữa cơn mưa
lạ, mưa thôi xao: mưa lên trời mưa thôi xao/ mưa em ướt mộng mưa trào thơ anh (Ngàn em). Làm sao có thể không
thôi nhớ tưởng xa xôi một câu hò giữa mưa
chiều hoen ố nắng (Không hết). Và làm sao có thể không thắt lòng khi bóng
mẹ chìm trong bóng Tà huy đến lụn đời: Mẹ
ngồi thân đẫm hoàng hôn/ hai vai quằn quại linh hồn con đau (…) à ơi một kiếp
mong chờ/ lụn đời sao vẫn nghe mờ bóng con. Có thể nào không xúc động,
không trân quý tiếng Việt, một ngôn ngữ đơn âm tiết nhưng giàu phẩm chất biểu
nghĩa, biểu thái đến vậy.
từ cõi hẹn đã lập lòe xa ngái
tình phôi thai bát ngát ý dung từ
uống thật cạn giữa tâm sầu ngần ngại
mỗi hồ trường là máu rủ chân như
(Chiêu
niệm)
Có thể nói không ngoa rằng, Bạtngàn trên hành
trình sáng tạo đã tinh luyện chữ nghĩa, làm giàu kho từ vựng thi ca tiếng Việt
của mình. Và cũng từ đó giúp người đọc nhận ra yếu tính của ngôn ngữ thơ. Tình
thơ có thể úa nhưng ngôn ngữ thơ phải tươi, phải mới, phải giàu sức gợi. phải đầy
tràn sinh lực qua sự sáng tạo của nhà thơ. Hãy chạm thật khẽ, thật tinh tế vào từ,
từ sẽ ngân vang. Được vậy, thơ sẽ mãi xanh tươi cùng năm tháng.
Trong “Tựa” tập: “Thơ
nguyễn đức bạtngàn”, Văn Tuyển ấn hành, năm 1999, tác giả viết: Thơ là
thần hồn, thơ là lênh đênh,/ là ung dung sinh diệt, là nôn nóng tình tự ai
hoài,/ là môi trong môi răng trong răng tác thành/ châu báu cho trời cao đất
sâu. Âu cũng là một cách diễn đạt
khác, thể hiện quan niệm riêng của nhà thơ. Thế nhưng, người đọc, qua đó, cũng
thấy rõ tính thẩm mĩ tự thân của thơ ca; thấy rõ phẩm chất, vẻ đẹp, vai trò,…
của thể loại trữ tình này trong đời sống. Điều cốt tủy là thi nhân đã hắt bóng
mình lên trang thơ, in đậm cá tính của mình vào câu chữ trữ tình và nhờ câu chữ
ấy tự bạch lòng mình. Và nhà thơ, qua trang viết mà mở ra muôn tờ mộng cho những
người thẩm thức cái đẹp của văn chương nghệ thuật mọi thời.
Như vậy, có thể
gòn gọn rằng, sao cứ loay hoay trước câu nói của Lê Quý Đôn? Sao không lấy cái
nhìn chiết trung khi cảm thụ thơ ca nói riêng và văn học nói chung. Bởi văn bản
là trung tâm, nhưng những yếu tố ngoại vi cũng cần thiết vì đó là những tham số
nghệ thuật. Nên chăng, cần có cái nhìn khách quan mang tính thẩm mĩ về thơ Bạtngàn,
về cái tôi trữ tình trong thơ, về phong cách sáng tạo của nhà thơ. Cái tôi cô
lữ trong thơ anh dẫu thế nào chăng nữa vẫn là cái tôi chân thành, cái tôi mong
cầu giao cảm bằng tính thẩm mĩ của thi ca. Và hơn nữa, vượt ra ngoài biên độ đó,
thơ biểu lộ khát vọng, giúp con người thấu hiểu nhau hơn, xích lại gần nhau hơn,
để cuộc đời này ngập tràn yêu thương. Bởi tấm lòng thơ luôn rộng mở. Bởi mãi
mãi thơ là tiếng nói yêu thương của muôn đời.
Mùa
thu 2011
[1] Như giọt mưa xuân,
Hương đất
là hai tờ báo xuân năm 1970 và 1971 của Hiệu đoàn học sinh Trung học Phan Châu
Đà Nẵng. Giã từ ân phúc là tập thơ
của 3 người bạn: Miên Hành, Trần Huyền Thoại và Nguyễn Đức Bạtngàn ấn hành năm
1970 khi các bạn ấy đang học lớp mười một.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét