Thứ Tư, 28 tháng 2, 2018

600. THẾ HỆ HOANG MANG

ĐẦM CẦU HAI ĐÁ BẠC
       Tình cờ đọc bài thơ “Thế hệ tôi, một thế hệ cúi đầu” của tác giả Gia Hiền, một bài thơ không rõ vì sao lại có mặt và nằm khuất lấp trong file tư liệu văn học, bỗng có cảm giác cay mũi. Đọc hết bài thơ, đầu óc hình như có chút lăn tăn sảng khoái, một chút gì như sóng lao xao vỗ mãi một âm buồn. Và tự dưng muốn cầm bút ghi lại cảm nhận đang âm vang thủy triều trong tâm trí.


       Cả bài thơ là tấc lòng xốn xang tự nhận thức, một sự tự nhận thức rất thật, rất chận thành, bằng một giọng điệu trần tình, phân bua với thứ ngôn ngữ không màu mè, chuốt gọt. Bài thơ mang chở tâm tình rất mộc nhưng có sức thuyết phục riêng.
       Trong văn chương, cái nhìn thế hệ hoặc mang màu sắc thế hệ đã có nhiều tác giả biểu hiện. Có thể đơn cử một vài trường hợp. Nhà văn Mỹ, Ernest Hemingway, giải Nobel văn chương năm 1954, tự nhận thế hệ ông là “Thế hệ vứt đi” (lost generation). Vũ Hoàng Chương trong bài “Phương xa” từng cảm xúc viết về thế hệ ông: “Lũ chúng ta đầu thai lầm thế kỉ/ Một đôi người u uất nỗi chơ vơ/ Đời kiêu bạc không dung hồn giản dị/ Thuyền ơi thuyền, xin ghé bến hoang sơ”. Giáo sư Tiến Sỹ văn chương Thanh Lãng khi viết văn học sử Việt Nam năm 1971 đã chọn phương pháp phân chia theo thế hệ. Với cuốn I, lịch sử văn học Việt Nam từ đầu đến 1428, ông đặt tên là “Đối kháng Trung Hoa”, từ 1428 đến 1505, gọi là “Thế hệ dấn thân yêu đời”. Với Chế Lan Viên, sau năm 1945, ông cũng gọi thế hệ ông như Vũ Hoàng Chương “lũ chúng ta” nhưng với cái nhìn phản tỉnh cảm tính, với giọng điệu reo ca hồn nhiên con trẻ. Đó là “Lũ chúng ta ngủ trong giường chiếu hẹp/ Giấc mơ con đè nát cuộc đời con…” (Người đi tìm hình của nước).
     Và nay, trong hiện thực xã hội và văn chương, Gia Hiền đã trở lại với cái nhìn thế hệ tự nhận thức đớn đau. Tựa bài thơ Thế hệ tôi, một thế hệ cúi đầu như nén chặt chủ đề bài thơ. Bài thơ là sự triển khai cụ thể về cái nhìn của cả thế hệ cúi đầu ấy, mặc dù nhà thơ biện giải: “Không, tôi không đại diện thế hệ mình đâu!”. Câu thơ như là cố tình tạo vỏ bọc khách quan cho một cái nhìn-cái nhìn không đại diện, cái nhìn “vơ đũa”, cái nhìn cá nhân chủ quan- nhưng cấu trúc điệp mở rộng tựa đề qua những câu thơ: Thế hệ tôi, một thế hệ cúi đầu; Thế hệ tôi, cơm áo gạo tiền níu thân sát đất; Thế hệ tôi, nhận quá nhiều di sản hoang mang; Thế hệ tôi, ngày và đêm đảo lộn tanh bành; Thế hệ tôi, tự ái đâu đâu; Thế hệ tôi, ba chục đã quá già; đã không thuyết phục được người đọc. Người đọc vẫn thấy bài thơ chan chứa nỗi buồn thế hệ qua màng lọc nỗi buồn của cá nhân nhà thơ.
      Thế hệ ấy buồn bởi đã đánh mất nhân cách. Họ đã đặt nhân cách mình “sau mông người khác”. Suốt một đời đôi lúc chỉ có một cái ngẩng đầu duy nhất, đó là khi cạo râu:
      Thế hệ tôi, một thế hệ cúi đầu
     Cúi đầu trước tiền tài, cúi đầu sau mông người khác
     Cúi đầu trước chính mình, cúi đầu bạc nhược
     Chỉ ngầng đầu…
     …vì…
     …đôi lúc…
     …phải cạo râu! 
      Thế hệ ấy buồn vì chưa thoát khỏi vòng hệ lụy của áo cơm. Cơm áo những thứ tưởng tẹp nhẹp ở đời nhưng có sức mạnh tước đoạt mất nhân cách con người và đạo lí làm người:
      Thế hệ tôi, cơm áo gạo tiền níu thân sát đất
      Cuộc sống bon chen
     Tay trần níu chặt
     Bàn chân trần không dám bước hiên ngang.
     Những câu thơ hiện ra, nối tiếp mạch thời gian kể của thơ kết hợp với khổ đầu theo kết cấu nhân quả. Vì “cơm áo gạo tiền níu thân sát đất” nên phải cúi đầu nhục nhã sau mông người khác, trước tiền tài, trước chính mình và thê thảm hơn, tệ hại hơn là cúi đầu bạc nhược, điều mà trong khổ này tác giả gọi là “không dám bước hiên ngang”. Những câu thơ khô khốc nhưng đầy ám ảnh. Nhưng câu thơ  gợi hình ảnh một thế hệ trí thức trước năm 1945 trong văn Nam Cao. Họ là những thầy giáo, nhà văn, viên chức nghèo. Họ bị nợ áo cơm đánh lưới khiến giá trị con người, nhân cách, đạo lí làm người “mốc lên, mòn ra và rỉ đi”. Họ sống lay lất, mòn vẹt trong trời đất. Họ cúi đầu không dám ngẩng mặt, lầm lụi đi về giữa cuộc sống xã hội. Từ liên tưởng đó, người đọc tự hỏi. Gần tám mươi năm trước, sống trong xã hội thuộc Pháp, cái xã hội mà người ta ra rả lên án nào là áp bức bóc lột, nào là sưu cao thuế nặng, nào là quan hệ giữa người là chó sói với cừu non,… thân phận trí thức như thế thì đã đành. Nhưng nay, gần tám mươi năm sau, xã hội đã ấm sáng lên như Tố Hữu reo ca: “Người yêu người sống để yêu nhau”, “Đường lên hạnh phúc rộng thênh thênh” (Bài ca mùa xuân 1961), nhạc sĩ nhà thơ Văn Cao mừng vui: “Mùa bình thường mùa vui nay đã về” để “Từ đây người biết thương người/ Từ đây người biết yêu người” (Mùa xuân đầu tiên-1976), sao thân phận con người lại đen đúa dị hơm hơn!
       Sỡ dĩ có cơ sự ấy là do thế hệ ấy thừa hưởng một di sản tư tưởng, lớn hơn là di sản văn hóa hoang mang, một di sản vĩ mô nhưng mập mờ khái niệm:
     Thế hệ tôi, nhận quá nhiều những di sản hoang mang
      Đâu là tự do, đâu là lý tưởng?
      Đâu là vì mình, và đâu là vì nước
      Những câu hỏi vĩ mô cứ luẩn quẩn loanh quanh…
      Thừa hưởng những khái niệm bị đánh tráo, nhưng thứ văn hóa lai căng làm sao thế hệ của nhà thơ không hoang mang. Từ hoang mang đến buông xuôi, mặc đời đưa đẩy sự sống của mình chỉ là tấc gang. Gần tám mười năm trước người trí thức như Thứ , như Hộ trong văn Nam Cao đau đớn vì phải rơi vào bi kịch “Sống mòn”, bi kịch “Đời thừa; thì nay thế hệ của Gia Hiền như một bản sao trung thực nhưng nhem nhuốc hơn. Họ không còn sống với thời gian. Họ tách mình ra khỏi dòng chảy sự sống muôn đời của nhân loại. Họ không còn rành rõ ranh giới giữa ngày và đêm. Họ Đốt ngày vào đêm, và đốt đêm không ánh sáng. Họ cảm thức sự vô nghĩa của thời gian Nếu cho chúng tôi một nghìn ngày khác/ Cũng chẳng để làm gì, có khác nhau đâu?. Và thế là họ rơi vào cảnh chết mòn hiện đại.
       Một khi lí tưởng lung lay, họ xem mình không còn là thực thể tồn tại, một giá trị hiện hữu thì người ta sẽ lao vào cuộc sống ảo như con thiêu thân. Lúc ấy, họ sống tự ái hơn là tự trọng, họ Tự hào  về những điều huyễn hoặc/ Tự lừa dối mình và dối lừa người khác/ Về niềm tin chằng chút thực chất nào. Thực đơn nuôi dưỡng đời sống tâm hồn của họ là Nỗi lẩu tinh thần là những chiếc I-phone. Ứng xử giữa người vơi người của thế hệ cúi đầu là Văn hóa ngoại giao là trà chanh chém gió.
     Một khi sống chỉ biết thờ phượng đồng tiền và danh lợi; sống quay lưng với thực tại, vùi tâm trí vào thế giới ảo; sống mà không còn phân biệt được trắng đen của từng giá trị của con người, của đời sống xã hội thì làm sao có thể sống tử tế với chính mình và với mọi người. Ý thức được điều đó, nhà thơ đã chua chát phơi bày sự thực tâm hồn, sự thực lối sống của thế hệ mình.
     Không ghế để ngồi, thì thôi, ngồi bệt
     Mối lo hàng ngày là tiền trong tài khoản có tăng lên?
     Thứ đắt nhất bây giờ là từng lạng NIỀM TIN
     Thứ rẻ nhất, lại là LỜI HỨA
     Sự dễ dãi đớn hèn khuyến mại đến từng khe cửa
     Có ngại gì mà không phản bội nhau?
     Có gì xót xa hơn cho con người và xã hội khi niềm tin đã mất; khi sự bội tín, bội tình, bội nghĩa, bội phản lên ngôi. Một xã hội mà niềm tin là của hiếm, lời hứa là thứ ngôn ngữ đầu môi chót lưỡi tất phải sinh ra những con người chỉ biết cúi mặt, gậm nhấm nỗi buồn của chính mình và của thời đại. Đấy là điều lịch sử sẽ ghi như tác giả dự cảm:
      Trăm năm sau, lịch sử sẽ ghi vài dòng vắn tắt:
      Có một thế hệ buồn, đã nhạt nhẽo đi qua…
      Đọc phần kết bài thơ, bỗng giật mình nhớ lại. Có ai đó đã từng nói về hành trình đời của con người: “Sống là đi ra từ bụng mẹ rồi đi đến một nấm mồ”. Tôi đã từng cho người này đeo kính đen để nhìn cuộc sống và nói những lời tối về con người. Và tôi đã vứt phát ngôn này vào sọt rác đời tôi.
       Bây giờ, sau khi đọc bài thơ này, sau khi đem bài thơ trải ra giữa mặt đất cuộc sống, tôi tự trách mình đã bị màu hồng của đời phỉnh phờ mà quên đi màu thật của nó. Thế hệ tôi cũng đã quên ngẩng đầu. Và tôi đã từng cúi đầu nhìn bóng mình nhạt nhẽo in trên trang sách đời dâu bể hoang mang.



     HD, 1-3-2018

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét