BÙI GIÁNG, MỘT BÀI THƠ LẠC VẬN
Nguyễn Đình Toàn
Bùi Giáng đã được nói đến nhiều. Mỗi người đọc ông nói đến ông theo một cách. Người ta nói đến thơ ông, nói đến tư tưởng của ông, nói đến cách thế ông sống, tùy theo cách nhìn của mình.
Người ta nhìn thấy ở ông, rõ hơn, kiến thức của ông, tư tưởng
của ông, như một hội tụ lớn của tư tưởng Đông Tây. Người ta cũng nói đến ông
như một người điên. Nếu ai đã có dịp nhìn thấy ông mang trên mình đủ các thứ:
nồi, niêu, xoong, chảo, vành bánh xe đạp, đầu đội mũ sắt, vắt trên vai những
miếng băng vệ sinh nhặt được ở đâu đó, tay cầm một chiếc gậy, đứng giữa đường,
thổi còi, vung tay chỉ lối cho xe cộ, thì coi ông là một người điên cũng không
có gì quá đáng. Nhưng cũng người điên ấy, vai mang một tấm biển, đi rong qua
các phố, trên tấm biển có những dòng chữ viết tay:
Hoan hô đồng chí Phạm
Tuân
Khi không anh bỗng
nhẩy tưng lên trời
Thì nhiều người lại cho rằng đó là một người điên giả vờ. Một sự
việc quan trọng như thế, một người Việt “đi dép lốp mà bay vào vũ trụ” như thế,
mà nói tới một cách giễu cợt vậy sao? Ông đã bị công an bắt giam. Nhưng rồi sau
đó người ta cũng thả ông ra, vì... ông điên! Và có lẽ vì điên nên ông không
biết sợ, ông nói toáng lên những điều có người nghe rồi cười, có người không
muốn nghe, cả những điều người ta không dám lập lại dù là để báo cáo đi nữa!
Người ta cũng nhìn thấy ông, mặc bộ quần áo rằn ri của quân đội
cũ, đứng trước cửa trường Đại Học Vạn Hạnh, nhìn các đám sinh viên nam nữ qua
lại, mủm mỉm cười, bảo: “Lịch sử bức bách tụi bay quá!” Còn rất nhiều những
giai thoại liên quan tới Bùi Giáng, liên quan tới những cơn điên của ông, liên
quan tới thơ ông.
Cũng vô lý như làn kia
dưới lá
Con chim bay bỏ lại
nhánh khô cành
Lá cũng mất như một
lần đã lỡ
Trời đã xanh như tuổi
ngọc đã xanh
Trời còn đó giữa tháng
ngày lỡ dở
Hồn nguyên tiêu ai
kiếm lại cho mình
Bờ trùng ngộ một phen
này phen nữa
Tờ cảo thơm như lệ ứa
pha hồng
Hồn hoa cỏ Phượng
Thành Hy Lạp úa
Nghe một lần vĩnh viễn
gặp hư vô.
Đọc một lần, đọc hai lần những câu thơ ấy của Bùi Giáng, ai có
thể cả quyết ông nói tới điều gì? Cái mất, cái còn, cái cổ xưa, cái cận đại,
Hồn nguyên tiêu / Phượng Thành Hy Lạp úa / Bờ trùng ngộ một phen này phen nữa /
điển tích và những câu nói cửa miệng xen lẫn, bờ trùng ngộ là gì mà có cả một
phen này phen nữa?
Đọc liền một lúc một bài thơ của Bùi Giáng, đọc một hơi mươi
mười lăm câu thơ của ông, người ta có cảm tưởng ông đùa rỡn với một điều gì đó
hết sức nghiêm trọng. Nhưng đã nghiêm trọng sao lại đùa? Đọc một hai câu thơ
của ông thôi, có khi chúng ta lạnh mình, tựa hồ bị thổi tạt bởi một cơn gió rét
không biết tự phương nào lại.
Đất hoa khóc vĩnh biệt
trời
Ngàn cây cố quận đổi
lời sương thâu
Đất khóc, trời khóc hay người khóc? Nhưng khóc cái gì mới được
chứ? Đất trời có vĩnh biệt đã vĩnh biệt lâu rồi, không còn gì để khóc. Ngàn cây
cố quận đổi lời sương thâu. Hãy tưởng tượng một sớm hay một chiều nào đó, ta
trở về quê cũ, ngẩng mặt trông những hàng cây, gió thổi lùa sương từ cành này
qua cành khác. Cành nói với lá. Lá nói với hư vô, nói với ta, hay chỉ vì gió
lay nên cành động? Cố hương. Cố quận. Cố nhân tình. Mờ mờ, ảo ảo.
Cảnh cũng là người và người cũng là
cảnh, lẫn lộn trong sương mù.
Ta cười cợt, ta nghiêm chỉnh, ta nhớ quên, ta làm bộ hay ta biết
rõ, tất cả đều diễn ra cùng một lúc với cái chết. Cái chết như sương mù bôi
xóa.
Nhưng nghĩ như thế cũng có thể là
nghĩ sai về thơ Bùi Giáng.
Hãy nghe ông nói về thơ ông: “Thơ
tôi làm ra là để tặng chuồn chuồn, châu chấu, xin các ngài học giả hãy xa lánh
thơ tôi”.
Hoặc: “Muốn bàn tới thơ, diễn dịch thơ, người ta chỉ có thể làm
một bài thơ khác”.
Ông còn bảo rằng: “Kẻ nào tự xét
mình từ trong tinh thể mà ra chả có chi là phiêu bồng tí chút thì chả nên cưỡng
cầu tự ép uổng ghé vào thi ca thâm xứ mà chi”.
Như thế, Bùi Giáng vừa làm thơ vừa
muốn đóng cửa thơ.
Nguyễn Vy Khanh, trong một bài viết
về thơ Bùi Giáng cũng cho rằng “người ta đã viết nhiều về hành trạng Bùi Giáng
hơn là thơ của ông”.
Nhưng hành trạng sống của ông cũng
là thơ ông.
Thơ ông làm là để tặng chuồn chuồn
châu chấu tại sao chúng ta lại lấy đọc rồi trách ông tư tưởng rời rạc, không có
hệ thống? Trữ tình chăng?
Bây giờ riêng đối diện
tôi
Còn hai con mắt khóc
người một con
Hiện thực chăng?
Bây
giờ em để quần đâu
Cỏ trên mình mẩy em
sầu ra sao?
Cười cợt chăng?
Que
diêm que lửa que lời
Cõi trăm năm cũng một
đời ba que.
Hai câu thơ vừa rồi rút trong bài
“que diêm” Bùi Giáng viết sau năm 1975.
Thơ Bùi Giáng như vậy.
Ông không khóc nhưng hình như thơ
ông có nước mắt. Ông cười cợt khi nói lời nghiêm trang. Ông nói với chính mình
nhiều hơn với người khác.
Về cái chết của mình ông đã để sẵn
trong tập Mưa Nguồn cách ngày ông qua
đời mười năm mấy câu này:
Ngày
sẽ hết tôi sẽ không ở lại
Tôi sẽ đi và chưa biết
đi đâu
Tôi sẽ tiếc thương
trần gian này mãi mãi
Vì nơi đây tôi sống đủ
vui sầu
Bùi Giáng là ai? Một trung niên thi
sĩ như ông vẫn tự gọi? Một nhà thơ lớn của Việt Nam? Hay giản dị: ông chỉ là
một người điên?
Rất nhiều người, trong đó có cả
những nhà văn, nhà thơ, nhà phê bình văn học của chúng ta, đã thử trả lời câu
hỏi ấy, nhưng hình như vẫn chưa có câu trả lời thỏa đáng. Mỗi người nhìn ông
một khác. Người ta viết, nói về Bùi Giáng như một cách tự giải đáp những thắc
mắc của mình về Bùi Giáng nhiều hơn là thơ của ông. Và khi nói về thơ của ông
dường như người ta lại nói về các giai thoại quanh ông, những điều bàn tán về
ông nhiều hơn. Nhưng nếu người ta đã có lần đọc Bùi Giáng, yêu những bài thơ,
những bài phiếm luận của ông liên quan tới thi ca, triết học, tôn giáo, chuyện
tào lao dính tới Brigitte Bardot, Kim Cương hay Mẹ Phùng Khánh của ông, thì
người ta sẽ vô cùng thích thú vì thấy tất cả những điều đàm luận kia chẳng khác
những tấm gương phản chiếu nhiều khuôn mặt của Bùi Giáng: cười cợt, đau đớn,
nghiêm chỉnh, điên rồ...
Nhà thơ Huy Tưởng coi Bùi Giáng là
“Thông tuệ và tài ba ngất trời điên đảo”. Nhà văn Mai Thảo viết: “Bùi Giáng
chất ngất một trời chữ nghĩa, trùng trùng một biển văn chương.” Nhà phê bình
Huỳnh Hữu Ủy cho rằng: “Đi cho tới cùng cái sâu thẳm nhất của ngôn ngữ tới đỉnh
cao chót vót của nó sống với nó trong từng mỗi giây phút, trong từng mỗi sát
na, xưa nay có lẽ chỉ mới có Bùi Giáng là một.” Nhà văn Cung Tích Biền cho thấy
một Bùi Giáng trong thơ và ngoài đời như sau: “Sống giữa đời ông có khả năng
lấy mật đắng, ớt cay làm ngọt. Ăn cơm để thiu rất nhiều ngày. Ông ăn chè ngọt
nấu cả với tương chao, nêm vài con mắm. Ông nổi tam bành lúc người đời lẽ ra
nên cười, được phúc, đắc lợi. Ông rất vui với những ngày chói lòa ánh dương
trong một thị thành mà nhìn xe cộ tưởng hươu nai.” “Ông lạ trong sinh hoạt đời
thường, lạ trong thi ca, tư tưởng. Ông rất đỗi cô đơn, tự đọa đầy, vầy cuộc
chơi múa hát chỗ vô thanh, đùa giỡn quỷ thần, tương đắc kẻ ở mộ, nhớ những
người sẽ tới. Ông trào lộng tuyệt cùng giữa bi đát. Nói chung, cuộc sống của
ông khá bí ẩn và kỳ dị.”
Như thế, có vẻ như người ta không
tiếc lời ca ngợi Bùi Giáng. Nhưng cũng không thiếu những người nghĩ khác.
Chẳng hạn như Thụy Khuê. Thụy Khuê viết: “Trong gần nửa thế kỷ
làm thơ, Bùi Giáng đã để lại hàng ngàn bài, có những câu thơ tuyệt hay, nhưng
chính sự lập lại những khám phá ngôn ngữ buổi đầu khiến thơ ông trở thành khuôn
sáo về mặt từ ngữ cũng như tư tưởng. Những dạ thưa, tồn sinh, trùng lai, phố
thị của Bùi Giáng, tà huy của Nguyễn Gia Thiều, mù sa, trăm năm của Nguyễn Du
ban đầu làm xao xuyến người đọc... Nhưng vì lập lại nhiều lần, chúng bị phá giá.”
Còn Trần Hữu Thục trong một bài nhận
định của mình đã viết rằng: “Nói cho rõ ràng ra, thơ của Bùi Giáng dở. Trừ một
số câu thơ hay, chưa hẳn là rất hay, còn lại hầu hết thơ ông đều dở. Tôi có cảm
tưởng rất nhiều câu thơ của ông làm chẳng khác gì những câu thơ ngây ngô của
mình khi mới bắt đầu tập tễnh làm thơ hồi còn học trò.” Xin trích dẫn mấy câu
lục bát của Bùi Giáng:
Giật mình lúc chợt
nghĩ ra
Rằng toàn thân thuộc
đã qua đời rồi
Có những câu ta thật sự không hiểu
ông định nói gì:
một hôm gầu guộc gầm
ghì
hai hôm gần gũi cũng
vì ba hôm
Xen vào đấy là những câu có thể làm
chúng ta sởn người khi đọc:
Đất hoa khóc vĩnh biệt
trời
Ngàn cây cố quận đổi
lời sương thâu
Hoặc chỉ một câu thôi đủ làm chúng ta ngẩn ngơ:
Còn hai con mắt khóc
người một con
Bùi Giáng điên thật chăng?
Người ta kể lại rằng, một cán bộ cao
cấp của Hà Nội khi gặp Bùi Giáng đã nói, họ đánh giá cao những tác phẩm của
ông, nhưng muốn rằng Bùi Giáng phải thay đổi cách suy nghĩ, phải tỏ ra tiến bộ
mới có thể làm việc trở lại được, hiểu theo nghĩa mới được “phép” viết lách trở
lại. Bùi Giáng đã đứng dậy chỉ vào mặt người này, hỏi lại:
- Thế nào là tiến bộ? Trời đất có
bắt núi non tiến bộ không? Nếu núi non tiến bộ mãi mày đi đâu mà ở?
Đó có phải lời nói của một người điên chăng?
Đây là một giai thoại bịa đặt hay có
thật?
Trở lại với thơ Bùi Giáng.
Hình như ông không làm thơ theo quan
niệm, theo cái cách người ta thường nghĩ. Ông
rũ bỏ thơ ra khỏi mình như những bụi bậm, như một oan nghiệp.
Mai Thảo mất trước Bùi Giáng. Trước
khi chết Mai Thảo có để lại bốn câu thơ:
Và
ở Sài Gòn vẫn còn Bùi Giáng
Tối tối về chùa, đêm
làm thơ
Ngày ca múa, khóc cười
giữa chợ
Kẻ sĩ điên thế kỷ mù
rồi
Hai người có gặp lại nhau chăng? Nếu
có, họ sẽ nói gì với nhau nhỉ?
Thanh Tâm Tuyền gọi Bùi Giáng là
“một thiên tài tự hủy ghê gớm nhất của thi ca hiện đại”. Nguyễn Hưng Quốc coi
“thơ Bùi Giáng là những phún xuất thạch phun lên từ hỏa diệm sơn của hồn ông”. Nguyễn
Hoàng Văn cho rằng “thơ ông [Bùi Giáng] là khối trầm hương chữ nghĩa”. Còn Bùi
Giáng tự nói về mình thế này:
Miệng anh còn đủ lưỡi
môi
Mà răng rụng hết lấy
gì nhe ra
Mím môi ôm mặt khóc òa
Hôn em một chút cho đỡ
già nua thôi.
Tóm lại khó có một bức chân dung Bùi Giáng. Chỉ có một hình ảnh từa tựa. Ông là một bài thơ lạc vận và đôi khi thừa chữ.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét