HOÀNG HẠC LÂU
阮攸
Nguyễn
Du
Bài thơ Hoàng
hạc lâu được đại thi hào Nguyễn Du (1765-1820) cảm tác khi đi sứ Trung
Quốc. Bài thơ in trong tập Bắc hành tạp
lục 北行雜錄. Tập thơ gồm 131 bài thơ
chữ Hán, sáng tác trong khoảng từ 1813 đến 1814. Bắc hành tạp lục được xem là đỉnh cao thơ chữ Hán của Nguyễn Du.
Bài thơ Hoàng hạc lâu này thể hiện
cảm hứng hoài niệm về thời đại thịnh trị đã lùi sâu vào dĩ vãng, hoài niệm cái
đẹp đã mất, qua đó nhà thơ gởi gắm nỗi niềm ưu tư về đất nước, về con người
nhưng không thể thổ lộ cùng ai. Nỗi đau này đã từng day dứt nhà thơ trong Độc Tiểu Thanh kí: Không biết ba trăm năm lẻ nữa/ Thiên hạ ai người khóc Tố Như.
Nguyên tác:
黃鶴樓
何處神仙經幾時,
猶留仙跡此江湄?
今來古往廬生夢,
鶴去樓空崔顥詩。
檻外煙波終渺渺,
眼中草樹尚依依。
衷情無限憑誰訴,
明月清風也不知。
Phiên âm:
HOÀNG
HẠC LÂU
Hà xứ thần tiên kinh kỷ thì,
Do lưu tiên tích thử giang mi?
Kim lai cổ vãng Lư sinh mộng,
Hạc khứ lâu không Thôi Hiệu thi.
Hạm ngoại yên ba chung diểu diểu,
Nhãn trung thảo thụ thượng y y.
Trung tình vô hạn bằng thuỳ tố,
Minh nguyệt thanh phong dã bất tri.
Dịch nghĩa:
LẦU
HẠC VÀNG
Thần tiên đã đi đâu từ bao đời xưa,
Mà nay vẫn còn lưu dấu ở bến sông này?
Việc mới đến, việc cũ qua như giấc mộng của chàng thư sinh họ Lư,
Hạc đã bay đi mất, lầu chỉ còn lại bài thơ của Thôi Hiệu.
Ngoài hiên, khói sóng vẫn mênh mông,
Trong mắt, cây và cỏ vẫn mơn mởn như xưa.
Tấm lòng thành không có ai để bày tỏ,
Trăng trong, gió mát cũng đâu hiểu được.
Dịch thơ:
LẦU HẠC VÀNG
Vắng bóng thần tiên bao kỷ
nay,
Sao còn lưu dấu bến sông
này.
Lư sinh mộng hết đời dâu bể,
Thôi Hiệu thơ còn chim hạc
bay.
Khói sóng ngoài hiên vờn vẽ tỏa,
Cỏ cây trong mắt mởn mơ bày.
Nỗi lòng chân thật nào ai rõ,
Gió mát trăng trong đâu có hay.
Hoàng
Dục dịch
Đà Nẵng, 8-2021
Cảm ơn admin đã chia sẻ ạ: https://issuu.com/pkankhang1234
Trả lờiXóa