GIANG
HỒ TỰ THÍCH II
慧中上士
Tuệ
Trung Thượng sĩ
“Giang hồ tự thích II” tức là “Vui thú giang hồ 2”.
Tên bài thơ gợi người đọc cảm hứng thú vui được bay nhảy dọc ngang trong trời
đất của chủ thể trữ tình. Đi vào bài thơ, ngôn từ, hình ảnh và giọng điệu càng
khắc sâu thêm ý tưởng về cảm hứng ấy. Tuy nhiên, nếu đặt bài thơ trong dòng
chảy thiền thi, trong tư tưởng của bậc thiền giả sẽ thấy cảm thức thơ xoay
quanh một chữ “vô”. Vì vậy, hai câu kết gợi sự tương đồng giữa Tuệ Trung với Tạ
Tam qua câu “Tạ Tam kim dĩ vô tiêu tức”. Tạ Tam (835-908) là thiền sư Huyền Sa
Sư Bị (玄沙師備)thời Hậu Đường. Từ nhỏ Tạ Tam thích câu cá.
Năm 30 tuổi, bỏ thuyền câu lên núi Phù Dung xuất gia theo hạnh đầu đà. Sau làm
đồ đệ của Thiền sư Tuyết Phong và đã khai ngộ.
Nguyên
tác:
江湖自適
湖海初心未始磨,
光陰如箭又如梭。
清風明月生涯足,
綠水青山活計多。
曉掛孤帆淩汗漫,
晚橫短笛弄煙波。
謝三今已無消息,
留得空船閣淺沙。
Phiên âm:
GIANG HỒ TỰ THÍCH (II)
Hồ hải sơ tâm vị thuỷ ma,
Quang âm như tiễn hựu như thoa.
Thanh phong minh nguyệt sinh nhai túc,
Lục thuỷ thanh sơn hoạt kế đa.
Hiểu quải cô phàm lăng hãn mạn,
Vãn hoành đoản địch lộng yên ba.
Tạ Tam kim dĩ vô tiêu tức,
Lưu đắc không thuyền các thiển sa.
Dịch nghĩa:
VUI
THÚ GIANG HỒ 2
Tấm lòng hồ hải trước đây chưa từng tiêu mòn,
Bóng quang âm vun vút như tên lại như thoi.
Gió mát trăng thanh, sinh nhai đủ,
Non xanh nước biếc, kế sống dồi dào.
Buổi sớm, kéo cánh buồm cô đơn băng mặt nước mênh mông,
Chiều hôm, cầm ngang chiếc sáo ngắn, đùa với khói sóng.
Tạ Tam nay đã không còn tăm hơi gì nữa,
Chỉ còn lưu lại chiếc thuyền không, ghếch mình lên cát.
Dịch thơ:
VUI THÚ GIANG HỒ 2
Hồ hải chí xưa chẳng nhạt
phai,
Bóng quang vun vút tựa thoi
bay.
Trăng thanh gió mát thân no
đủ,
Nước biếc non xanh trí ắp
đầy.
Sáng sớm giương buồm băng sóng nước,
Chiều hôm nâng sáo giỡn đùa mây.
Tạ Tam dấu tích nay nào thấy,
Còn chiếc thuyền không gối bãi này.
Hoàng Dục dịch
Đà Nẵng, 12-2021
Nguồn: Thơ văn Lý Trần (tập II), NXB Khoa học xã hội, 1988
Chữ 空 (không) trong câu cuối rất hay, gợi nhớ chữ "không" trong
Trả lờiXóabài Hoàng Hạc Lâu...