Thơ Bùi
Giáng, hiện sinh trong đoạn trường và định mệnh
Những "dạ
thưa", những "tồn
sinh", những "phố
thị", những "cố
quận", "đười ươi", đã trở thành những cốt cách, những địa
chỉ rất Bùi Giáng:
Dạ thưa phố Huế bây giờ
Vẫn còn núi Ngự bên bờ sông Hương
Dạ thưa Vỹ Dạ về gần
Ðã từ xa lắm thiên thần nhớ em
Thơ Bùi Giáng, ngay từ thuở đầu
đã rong chơi, lãng mạn, đã tinh nghịch, nhẹ nhàng, hóm hỉnh, luôn luôn là
những lời vấn đáp lẩn thẩn về ý nghĩa cuộc đời, về lẽ tồn sinh, về những
chuyện phù du, dâu bể, ẩn khuất một dục tình khép mở Xuân Hương:
Cá ở ngoài khe có ít nhiều
Cồn lau cỏ lách có hoang liêu
Em về có hỏi răng ri rứa
Nhắm mắt đưa chân có bận liều.
(Bờ trần gian)
hoặc:
Bỏ hai chân xuống một vùng
Nước truông là lá thu rừng xuống khe.
(Bỏ hai chân)
Những dòng thơ trên đây, theo như
lời Mai Thảo, Bùi Giáng đã làm một mạch, tại chỗ, xuất bút thành thơ. Huyền
thoại Bùi Giáng, thi sĩ bẩm sinh, poète né, trong thập niên 60-70, được xác
định như một hiện tượng văn học độc đáo. Như thể ông đã biết trước đường đi
nước bước của thơ. Có khả năng thiên bẩm về sự lang thang ngơ ngẩn của chữ
trên đời, và chỉ cần huơ tay, bắt chúng, nhốt vào câu lục bát, như Bình
Nguyên Lộc "nhốt gió", là có ngay thơ Bùi Giáng:
Một hôm đếm một ra ba
Thật là lạ lắm, ấy là cái chi
hay:
Người con gái lội qua khe
Bàn chân với nước lạnh đè lên nhau
Nỗi niềm tưởng lại xưa sau
Bàn chân với nước cùng nhau lại đè.
(Lá hoa cồn)
*
Hỏi tên? Rằng biển xanh dâu
Hỏi quê? Rằng mộng ban đầu rất xa
Gọi tên là một hai ba
Ðếm là diệu tưởng, đo là nghi tâm
Bốn câu tự họa trên đây dường như
đã gói trọn bản chất thơ ca và tư tưởng Bùi Giáng. Một bản chất đa mang nỗi
hiện sinh hoang tưởng trong một "đạo khờ" gắn bó với đoạn trường tái tân thanh (chữ của Bùi Giáng) tiếp nhận Nguyễn
Du như một thông đạo, thông thư, thông mệnh văn học.
Thân phận dâu bể của con người, nỗi hoài nghi về số
kiếp, ta từ đâu lại? Ta là ai? Những trầm luân, biến đổi làm sao đo, đếm, đặt
tên được? Ðến bản thân ta, ta còn không biết, nữa là... Nếu trường phái hiện
sinh (Sartre) bác bỏ tính chất định mệnh, thì ở Bùi Giáng, định mệnh (Kiều)
và hiện sinh giao hưởng với nhau thành một cấu trúc tư tưởng mới, tạo nên
những vần thơ đậm dấu Ðạm Tiên, hắt ra những ánh siêu thực:
Em chết bên bờ lúa
Ðể lại bên đường mòn
Một dấu chân bước của
Một bàn chân bé con
Anh qua miền cao nguyên
Nhìn chân trời bữa nọ
Ðêm cuồng mưa khóc điên
Trăng cuồng khuya trốn gió
Mười năm sau xuống ruộng
Ðếm lại lúa bờ liền
Máu trong mình mòn ruỗng
Xương trong mình rã riêng
(Mưa nguồn)
Bùi Giáng có những câu thơ rất
cao, rất tĩnh, rất sâu, thanh thản, gợi đến hư vô trong một không gian lãng
mạn trữ tình, ít thấy xuất hiện trong thơ Việt.
Buổi trưa đi vào giữa lòng lá nhỏ
Tiếng kêu kia còn một chút mong manh
Dòng nức nở như tia hồng đốm đỏ
Lạc trời cao kết tụ bóng không thành
(Hư vô và vĩnh viễn - Mưa Nguồn)
Không gian Bùi Giáng, một cõi hư
không đầy dấu hỏi, bồng bế nhau đi, năm này qua tháng khác, một cõi trùng
sinh, di động luân hồi.
Những nhịp bước trên đường còn dội mãi
Vang về đâu không vọng lại hồi âm
Của réo rắt riêng một lần mãi mãi
Gió phương trời ủ mộng giữa hoa tâm
Em hỏi mãi tuy biết lời đáp lại
Chẳng bao giờ thỏa đáng giữa đời câm
Em ngó mãi những chiều về trở lại
Mang những gì về trong cõi trăm năm...
(Chiều - Mưa Nguồn)
Từ Nguyễn Du, Bùi Giáng trích tạo
nên một mô típ bạc mệnh hiện đại, mầu sắc siêu thực, tài tử và tài hoa, một
chất thơ giao thoa Nguyễn Du Bùi Giáng
Lớp phiêu bồng mọc trăng ngàn
Thành xưa phố cũ muôn vàn phía sau
Ðạp thanh vẽ bóng lộn mầu
Góp dâng cữ gió nghiêng đầu sương mây
Ngõ ban sơ hạnh ngân đài
Cổng xô còn vọng điệu tài tử qua
Xin chào giữa bước chân ra
Chết từ sơ ngộ mầu hoa trên ngàn
(Mầu hoa trên ngàn)
Nơi Bùi Giáng còn một mô típ bạc
mệnh, cuồng khất, tổng hợp đoạn trường, tồn sinh, ngông ngôn, rất liều và rất
loạn, mà cũng là vọng âm của niềm hoang mang tuyệt đối:
Hồng quần rất mực bước ra
Trường quần duệ địa phong hoa lá cồn
Phải rằng nắng quáng dập dồn?
Hay là đèn trút linh hồn oái oăm?
Phải là nguyệt giữa đêm rằm?
Nguyên tiêu lãng đãng lá nằm ngẩn ngơ?
Kể từ hằng thủy ban sơ?
Kể từ sơ thủy về tờ vẽ trang?
Kể từ thu tạ lên đàng?
Rừng phong thu đã quan san nhuộm mầu?
Phải rằng đó trước kia sau?
Hay là sau trước còn tao ngộ gì?
(Con đường ngả ba)
*
Nhưng bi kịch của Bùi Giáng là ông lập lại chính
mình.
Trong gần nửa thế kỷ làm thơ, Bùi Giáng để lại hàng
ngàn bài, có những câu thơ tuyệt hay, nhưng chính sự lập lại những khám phá
ngôn ngữ buổi đầu khiến thơ ông trở thành khuôn sáo, về mặt từ ngữ cũng như
tư tưởng. Những dạ thưa, tồn
sinh, trùng lai, phố thị của
Bùi Giáng, tà huy của Nguyễn Gia Thiều, mù sa, trăm năm của Nguyễn Du... ban đầu làm xuyến
xao người đọc: Em về rũ áo mù sa, trút quần phong nhụy cho tà huy bay.
Nhưng vì lập lại nhiều lần chúng bị phá giá. Hiện tượng phá giá này có mặt
ngay ở những tác phẩm đầu và chủ yếu của Bùi Giáng.
Từ Mưa
Nguồn, Lá Hoa Cồn, năm 62, 63 đã thấy xuất hiện tính chất đoạn trường,
tồn sinh như tinh thần chính trong tư tưởng Bùi Giáng: Nguyễn Du, Tản Ðà gặp
gỡ Heidegger, Breton phóng sinh một tạng chán đời mới lạ. Bài Rượu Uống trong Lá Hoa Cồn, một thứ đoạn
trường ngông rất lãng mạn siêu thực, tiêu biểu cho tính chất lang thang trong
cấu trúc thơ Bùi Giáng:
Thưa em rượu uống bây giờ
Là trăm năm gục hai bờ tử sinh
Ðộng hờ hững chúa điêu linh
Em làm Hoàng Hậu mọc tình cỏ phơi
Nhà ma cửa quỷ đi đời
Chìm hơi thở đục trong lời sương xanh
Càn khôn xiêm mỏng che mành
Về trong thiên hạ em thành thiên thân.
Thưa em rượu uống bây giờ
Là thiên cổ lụy còn trơ bên mình
Tài hoa tiếng vọng điêu linh
Phạm Ðan Phượng chết theo Quỳnh Như
sao.
Thưa em từ bữa nghiêng chào
Chớm trang đầu chợt sóng trào trường
giang
Em đi rắc lá trên đàng
Cỏ xanh rì mọc suốt càn khôn kia
Mùa xuân mưa rưới mộng lìa
Về trong nắng hạ mép bìa sai bâu
Thưa em rượu uống bây giờ
Là trong lát nữa lên bờ đuổi ma
Chạy quang cồn cụm lá già
Rách như bươm suốt ruộng sa mạc đồng
Càn khôn gió đổ chất chồng
Rú như beo rống như hùm đổi hang
Trên rừng dưới lũng tan hoang
Vẫn sừng sững bóng chắn ngang quỷ sầu
Thưa em rượu uống bây giờ
Là trong lát nữa trăng mờ hỏi ma
Hỗn mang về giữa hiên nhà
Bây giờ cố quận tên là chiêm bao
Nhìn nhau trong lũy ngoài hào
Lời phôi dựng một điệu chào dị sai
Trên đầu thế kỷ chia hai
Nguồn man mác lạnh tìm ai bây giờ
Thưa em rượu uống bây giờ
Là thiên thu lại còn trơ hận trường
Chung cầm dâu biển khôn lường
Chân trời mộng lý con đường chia ba
Nam đình doanh trại dàn qua
Trống chầu trùng ngộ thưa là không mong
Hoạt tồn phát tiết sầu đong
Tràng giang thế kỷ xô dòng xuống lên
Bài thơ gồm năm nhịp nối tiếp
nhau bằng điệp khúc Thưa em rượu uống bây giờ. Mở đầu Thưa em rượu uống bây giờ,
điệp khúc mấu chốt, mở cửa dẫn đến câu thơ thứ nhì: Là trăm năm gục hai bờ tử sinh.
Cả hai nằm trong cấu trúc song song, tổng hợp quan niệm ngông, đoạn trường và
hiện sinh của toàn bài. Câu ba, câu bốn: Ðộng
hờ hững chúa điêu linh, Em làm Hoàng Hậu mọc tình cỏ phơi, đệm thêm chất
lẳng lơ dục tính, nhưng đã loãng đi vì loại hình này được Bùi Giáng dùng
nhiều. Rồi Chìm hơi thở đục
trong lời sương xanh, một câu rất hay bị đặt bên một câu lãng xẹt: Nhà ma cửa quỷ đi đời.
Nếu chúng ta đọc đến nhịp thơ thứ nhì:
Thưa
em rượu uống bây giờ
Là thiên cổ lụy còn trơ bên mình
cũng vẫn thấy nguyên những nhược điểm như nhịp thơ đầu,
tức là trong phần thơ đệm có những vội vàng, dễ dãi, ghép chữ, ghép ý rất
sáo:Tài hoa tiếng vọng điêu linh, Phạm Ðan Phượng chết theo Quỳnh Như sao.
Ở những nhịp sau, thì ngay chính điệp khúc mấu
chốt:
Thưa em rượu uống bây giờ
Là trong lát nữa lên bờ đuổi ma
Thưa em rượu uống bây giờ
Là trong lát nữa trăng mờ hỏi ma
Thưa em rượu uống bây giờ
Là thiên thu lại còn trơ hận trường
đã có sự lập lại chính mình, như thể nhà thơ tiện tay bắt
được chữ nào vội bỏ ngay vào lục bát, không màng nhìn lại những câu thơ đầu
nữa.
*
Tất nhiên láy là một quy ước rất thường trong thi
ca. Nhưng láy chỉ làm tăng giá trị thơ khi nó đưa đến những dồn dập hoặc
trong cảm xúc, hoặc trong nhịp điệu, hoặc trong sinh động... Tức là láy phải
đưa tới một trạng thái căng thẳng, tới một vận tốc khác trong tiến trình âm
và ý.
Ví dụ:
Này
chồng, này vợ, này cha
Này là em ruột, này là em dâu
là một trong những cách láy của Nguyễn Du, vừa tăng vận
tốc miêu tả, vừa gia tốc sức ép của hiện thực, rành rành, chính xác, chỉ mặt,
chỉ tên.
Hoặc:
Làm
cho cho mệt cho mê
Làm cho đau đớn ê chề cho coi
Láy ở đây lũy thừa mật độ ác liệt
của Tú Bà.
Hoặc:
Buồn
trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa
Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu
Mỗi lần láy này là một lần Nguyễn
Du chuyển cảnh, chuyển tình.
Sự láy lại, nơi Bùi Giáng, rất thường khi chỉ là
láy dập dình tại chỗ, láy lười, thấy hợp vần, tiện thể thì láy. Láy hồ đồ ít
khi mang tới trạng thái mới, cảm xúc mới, hoặc một sức ép gia tăng, mà chỉ
cho ta một cảm tưởng dằng dai, lai tạp:
Hãy mang tôi tới giữa đời
Giết tôi chết giữa cõi đời mốc meo
Hãy mang tôi tới nắng chiều
Giết tôi chết giữa một chiều khe mương
Hãy mang tôi tới dặm trường
Giết tôi chết giữa con đường bơ vơ
Hãy mang tôi tới bất ngờ
Giết tôi ngẫu nhĩ trong giờ ngẫu nhiên
Hãy mang tôi tới diện tiền
Giết tôi chết giữa người thuyền quyên
kia
(Sa mạc trường ca, Cầu Nguyện Ca)
*
Jacques Brel, năm 1966, khi tuyên bố ngừng hát ở
tột đỉnh danh vọng, trả lời câu hỏi: "Tại sao ông ngừng hát lúc này?" Brel bảo: "Tôi ngừng vì muốn giữ lòng ngay thẳng với thính giả và
với chính mình. Bởi vì khi người nghệ sĩ như tôi, đã nắm vững được tất cả
những yếu tố kỹ thuật làm lay động lòng người, thì người đó sẽ có khuynh
hướng ăn gian (tricher), phong tỏa người nghe bằng tất cả những kỷ sảo của
mình, và khi tôi biết mình sắp đi đến chỗ bước vào kỷ sảo , tôi ngừng." Tất nhiên, Brel chỉ ngừng hát hai
năm và năm 68, khi ông trở lại với âm nhạc, đã với một tinh thần khác, hẳn
Brel biết mình đã đoạn tuyệt được với ý định dùng kỷ sảo để thu phục lòng
người. Và Brel ở lại với âm nhạc thêm sáu năm nữa.
Ở Bùi Giáng hình như không có sự tự giới ấy. Cho nên
biết bao lần người đọc tiếc, giá Bùi Giáng đừng ham chơi, chịu khó dừng lại ở
chỗ đáng dừng để những câu thơ sáng giá như:
Bụi thu mờ ai phủi với hai tay
hoặc:
Em về mấy thế kỷ sau
Nhìn trăng có thấy nguyên màu ấy không
Ta đi còn giữ đôi giòng
Lá rơi có dội ở trong sương mù
khỏi bị lọt vào khu rừng hoang, ôm đồm những lời thơ vội
vàng, mọc lên như cỏ dại.
*
Ám ảnh đoạn trường, tư tưởng và ngôn ngữ Nguyễn
Du theo đuổi Bùi Giáng suốt đời. Những tập thơ mới nhất, in ở hải ngoại những
năm gần đây càng lộ rõ. Trong những cuốn Thơ
Bùi Giáng (sđd), Bùi Giáng 94 (in tại California năm 95), và
một phần tập Chớp Biển (sđd), Bùi Giáng tìm về người thầy
Nguyễn Du như một cứu cánh. Hầu như mỗi bài thơ của ông đều có ít nhất một
chữ hoặc một câu của Nguyễn Du. Và cấu trúc toàn bài thường dựa vào ý một câu
Kiều:
Rằng xưa ký ức đàn bà
Tên là phụ nữ, tuổi là dấn thân.
.....
Trước đèn một tập mở ra
.....
Biển dâu lục địa cõi miền
.....
Cảo thơm lần giở gió giăng dậy thì
Ám ảnh "mù sa", ám ảnh
"chỉn e", ám ảnh "vân mòng", "mai sau",
"trăm năm", "ngẫu nhĩ", "phong tình", "cổ
lục", "dặm về", "tử sinh"... trở thành lớp da thứ
nhì của Bùi Giáng:
Rừng phong thu đã nhuốm màu
Quan san ngần ấy tư trào ngần kia
.....
Chốn nào mộng mị chiêm bao
Chốn này tỉnh táo tiêu tao vân mồng
Từ cảnh sang tình, từ mơ sang
thực, ám ảnh ngôn ngữ trở thành ám ảnh tư tưởng. Bùi Giáng đã cạn dần hồn
mình và sống hồn Nguyễn Du trong đoạn cuối đời:
Em đi từ tỉnh mộng đầu
Một mình anh ở mang sầu trăm năm
Em từ vô tận xa xăm
Trùng lai chất vấn: Từ trăm năm nào?
Những câu hỏi mà Bùi Giáng trải
suốt đời thơ, thắc mắc, tìm kiếm, đặt nghi vấn về cõi đi, cõi ở, cõi có, cõi
không, biết đâu hôm nay Bùi Giáng chẳng đã tìm được Nguyễn Du ở một cõi trùng lai nào đó, và ông đang chất vấn người thầy về nỗi đoạn trường ấy, từ trăm năm
nào?
Tháng 10/1998 Thụy Khuê
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét