Thứ Hai, 17 tháng 8, 2020

619. THU HOÀI BÁT THỦ

           

Nhà thờ Nhì Tây, Thanh Hương
   NỖI NHỚ MÙA THU THỨ 7

     Nguyễn Lộ Trạch

  Bài thơ này là niềm cảm khái của nhà thơ. Cha ông xưa đã để lại nhưng công nghiệp lớn, những chiến tích lẫy lừng. Trận Vạn Kiếp kiếm sắc sáng lòa. Thế nhưng ngày nay, trước họa ngoại xâm, người ta vẫn lặng im trước cột đồng Mã Viện, nỗi đau dân tộc. Người ta chẳng ai còn giữ được phong cách thanh cao. Họ ngụp lặng trong những thú vui phù phiếm. Riêng chỉ có ông già Đỗ Lăng, cũng chính là nhà thơ đang đau buồn mà thôi.

            Phiên âm:

Châu tiêu Lãng Bạc Phục Ba công,

Tịch mịch sơn hà thu sắc trung.

Vạn Kiếp kiếm minh dư bá liệt,

Thú Dương bi thực mạc cao phong.

Bàn không quán hạc phiên vân hắc,

Phún nhật giao long quyển hải hồng.

Liệu lượng thành đầu ca vũ dạ,

Thâm ngâm độc quái Đỗ Lăng ông.

 

Dịch nghĩa:

 

Cột đồng đỏ bên hồ Lãng Bạc ghi chiến công của Phục Ba,

Sông núi vắng lặng trong sắc mùa thu.

Kiếm trận Vạn Kiếp kêu vang vẫn còn đây công nghiệp vĩ đại,

Bia núi Thú Dương bị xói mòn đã xa rồi phong cách thanh cao.

Lượn vòng trên không sếu hạc bay qua mây đen,

Phun mặt trời thuồng luồng cuộn biển đỏ ối.

Âm ĩ đầu thành tiếng ca múa suốt đêm,

Riêng lạ thay ông già Đỗ Lăng rền rĩ thở than.

 
 
            Dịch thơ:
 
             Cột đồng Mã Viện đứng khoe công,
             Im ắng sắc thu phủ núi sông.
             Vạn Kiếp kiếm lòa công nghiệp dựng,
             Thú Dương bia xói tấc lòng trung.
             Bầu không sếu hạc tung mây xám,     
             Mặt biển giao long cuộn sóng hồng.
             Ầm ỹ đầu thành đêm múa hát,
             Đỗ Lăng than thở một mình ông.
                        Hoàng Dục dịch

 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét