Nhà thờ Nhì Tây, Thanh Hương |
Nguyễn Lộ Trạch
Bài thơ này là niềm cảm khái của nhà thơ. Cha ông xưa đã để lại nhưng công nghiệp lớn, những chiến tích lẫy lừng. Trận Vạn Kiếp kiếm sắc sáng lòa. Thế nhưng ngày nay, trước họa ngoại xâm, người ta vẫn lặng im trước cột đồng Mã Viện, nỗi đau dân tộc. Người ta chẳng ai còn giữ được phong cách thanh cao. Họ ngụp lặng trong những thú vui phù phiếm. Riêng chỉ có ông già Đỗ Lăng, cũng chính là nhà thơ đang đau buồn mà thôi.
Phiên âm:
Châu tiêu Lãng Bạc
Phục Ba công,
Tịch mịch sơn hà
thu sắc trung.
Vạn Kiếp kiếm minh
dư bá liệt,
Thú Dương bi thực
mạc cao phong.
Bàn không quán hạc
phiên vân hắc,
Phún nhật giao long
quyển hải hồng.
Liệu lượng thành
đầu ca vũ dạ,
Thâm ngâm độc quái
Đỗ Lăng ông.
Dịch nghĩa:
Cột đồng đỏ bên hồ
Lãng Bạc ghi chiến công của Phục Ba,
Sông núi vắng lặng
trong sắc mùa thu.
Kiếm trận Vạn Kiếp kêu
vang vẫn còn đây công nghiệp vĩ đại,
Bia núi Thú Dương bị
xói mòn đã xa rồi phong cách thanh cao.
Lượn vòng trên không
sếu hạc bay qua mây đen,
Phun mặt trời thuồng
luồng cuộn biển đỏ ối.
Âm ĩ đầu thành tiếng
ca múa suốt đêm,
Riêng lạ thay ông già
Đỗ Lăng rền rĩ thở than.
Dịch thơ:
Cột
đồng Mã Viện đứng khoe công,
Im
ắng sắc thu phủ núi sông.
Vạn
Kiếp kiếm lòa công nghiệp dựng,
Thú
Dương bia xói tấc lòng trung.
Bầu
không sếu hạc tung mây xám,
Mặt
biển giao long cuộn sóng hồng.
Ầm
ỹ đầu thành đêm múa hát,
Đỗ
Lăng than thở một mình ông.
Hoàng
Dục dịch
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét