Chủ Nhật, 11 tháng 10, 2020

630. KIM LĂNG NGŨ ĐỀ

Ngọ môn, Huế
   Lưu Vũ Tích (772-842), tự Mộng Đắc, người Lạc Dương, Hà Nam, Trung Quốc. Đỗ Tiến sỹ năm 21 tuổi, làm quan triều Đường Nhuận Tông. Hoạn lộ của ông lắm thăng trầm, nên cuối đời ông về sống nhàn tản ở quê nhà. Về thơ ca, ông để lại: Lưu Tân khách tập, gồm 40 quyển.

Thơ ông bộc lộ nỗi phẫn uất trong lòng ông, phê phán chính trị thối nát đương thời, thể hiện niềm hoài cổ chứa chan bi thương của ông. Kim Lăng ngũ đề hay còn gọi là Ô Y hạng là bài thơ biểu hiện nội dung tư tưởng đó của ông.

Nguyên tác viết theo thể tứ tuyệt, luật trắc vần bằng, vì vậy, người dịch chuyển ngữ thành 2 bản. Bài thứ nhất giữ nguyên luật thơ của nguyên tác. Bài thứ hai dịch theo luật bằng vần bằng. Mong rằng phần nào cũng chuyển tải được hình thức và nội dung thơ của Lưu Vũ Tích.

 KIM LĂNG NGŨ ĐỀ - Ô Y HẠNG

Phiên âm:

Chu Tước kiều biên dã thảo hoa,

Ô Y hạng khẩu tịch dương tà.,

Cựu thời Vương, Tạ đường tiền yến,

Phi nhập tầm thường bách tính gia..

                         Lưu Vũ Tích

Dịch nghĩa:

Bên cầu Chu Tước cỏ dại đầy hoa,

Trong ngõ Ô Y mặt trời đã xế bóng.

Chim én nơi lầu đài của họ Vương, họ Tạ ngày trước,

Nay cũng bay vào những nhà dân chúng bình thường.

Dịch thơ:

                   Bài I

Chu Tước bên cầu cỏ nở hoa,

Ô Y ngõ ấy bóng chiều tà.

Én vờn Vương, Tạ lầu xưa đó,

Nay cũng liệng bay khắp mọi nhà.

                  Bài II

Bên cầu Chu Tước cỏ đầy hoa,

Trong ngõ Ô Y bóng xế tà.

Chim én vờn lầu Vương, Tạ cũ

Nay nhà dân dã cũng bay qua.

                     Hoàng Dục dịch 


        Đà Nẵng, 12-10-2020

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét