![]() |
Chùa Diệu Ngộ, Thừa Lưu, TT-Huế |
Ngày còn học lớp Đệ Nhị (1969) ở trường Trung học Phan Châu Trinh Đà Nẵng, tôi đã rất thích lời tổng bình và bản dịch “Thính Đoạn trường tân thanh hữu cảm” của Phạm Quý Thích. Rồi lên Đại học, cảm xúc ấy vẫn không đổi. Nhưng rồi, trong quá trình dạy học cứ lăn tăn: Bản dịch của Phạm Quý Thích hay tuyệt, nhưng cứ như một bài thơ mới khác của ông. Lăn tăn nên có ý định dịch cho vui nhưng ngại vì kém cỏi. Dịch rồi bỏ dở. Nay nghỉ hưu, bèn hoàn thiện bản dịch của mình. Cũng chỉ là một thú chơi của riêng mình.
Đăng lên đây để ngậm ngùi nhớ bạn: Thi sỹ Nguyễn Đức Bạt Ngàn một thời lang thang thành Huế.
Mong
được lượng thứ.
THÍNH ĐOẠN TRƯỜNG TÂN THANH HỮU CẢM
Phạm Quý Thích
聽斷 腸 新 聲有感
佳 人 不 是 到 錢 塘
半 世 煙 花 債 未 償
玉 面 豈 應 埋 水 國
冰 心 自 可 對 金 郎
斷 腸 夢 裏 根 緣 了
薄 命 琴 終 怨 恨 長
一 片 才 情 千 古 累
新 聲 到 底 為 誰 傷
Phiên âm:
Giai nhân bất thị đáo
Tiền Đường,
Bán thế yên hoa trái vị thường.
Ngọc diện khởi ưng mai Thuỷ quốc,
Băng tâm tự khả đối Kim lang.
Đoạn trường mộng lý căn duyên liễu,
“Bạc mệnh” cầm chung oán hận trường.
Nhất phiến tài tình thiên cổ luỵ,
“Tân thanh” đáo để vị thuỳ thương.
Dịch nghĩa:
Nếu người đẹp Thuý
Kiều mà không đi đến sông Tiền Đường,
Thì nửa đời lầu xanh vẫn chưa trả xong nợ.
Mặt ngọc của nàng đâu cần phải chìm xuống thuỷ cung,
Lòng băng tuyết của nàng thì xứng đáng gặp chàng Kim lắm.
Giấc mộng đoạn trường nay đã biết rõ nguồn cơn,
Khúc đàn “Bạc mệnh” dứt rồi nỗi hận còn vương.
Vì một mảnh tài tình mà ngàn năm còn luỵ,
Tác phẩm “Tân thanh” này vì ai mà thương cảm đau lòng.
Dịch thơ:
Giọt nước Tiền Đường chẳng
rửa oan,
Phong ba chưa trắng nợ hồng nhan.
Lòng tơ còn vướng chàng Kim Trọng,
Vẻ ngọc chưa phai chốn thuỷ quan.
Nửa giấc Đoạn trường tan gối điệp,
Một dây Bạc mệnh dứt cầm loan.
Cho hay những kẻ tài tình lắm,
Trời bắt làm gương để thế gian.
Phạm Quý Thích dịch
Sau đây là bản dịch của tôi. Khi dịch cố gắng giữ đúng luật thơ của nguyên tác: luật bằng vần bằng.
Thúy
Kiều không đến chốn Tiền Đường,
Thì
nợ lầu xanh chẳng trả xong.
Mặt
ngọc đâu cần chìm đáy nước,
Lòng
trong ắt sẽ gặp Kim lang.
Đoạn
trường mộng cũ nguồn cơn rõ,
“Bạc
mệnh” đàn xưa nỗi hận vương.
Một
mảnh tài tình ngàn kiếp lụy,
“Tân Thanh” sầu não cũng vì thương!
Hoàng Dục dịch
Đà
Nẵng, tháng 4 năm 2020
TỔNG VỊNH KIỀU
Phạm Quý Thích
Trong trời đất đã có người tài tình
tuyệt thế, tất thế nào cũng có việc khảm kha bất bình. Tài mà không được gặp
gỡ, tình mà không được hả hê, đó là căn nguyên của hai chữ đoạn trường vậy. Thế
là lại có kẻ thương tiếc tài tình, xem thấy việc, trông thấy người, thì còn
nhìn thế nào được mà không thở than rền rĩ.
Nghĩa là bậc thánh mới quên được tình,
bậc ngu không hiểu tới tình. Tình chung chú vào đâu, chính là chung chú vào bọn
chúng ta vậy. Cho nên phàm người đã ít tình, tất là không có tài, chỉ nửa loà nửa
sáng, sống chết trong vòng áo mũ, trong cuộc no say, dù có gặp cái cảnh thanh
nhã như hoa thơm buổi sáng, trăng tỏ ban đêm, cũng chỉ trơ trơ như cây cỏ, như
cá chim vậy.
Còn đến bậc tuyệt thế tài tình, mặt
ngọc vẻ hoa, lòng gấm miệng vóc, ngâm thơ liễu nhứ, nổi tiếng đài gương, vịnh
phú ngô đồng, khoe tài án bút, nếu một bậc quán tuyệt thiên thu như thế lại gặp
được bậc chân chính tài nhân, kết duyên tác hợp, khi thơ ngâm hoa nở, khi đàn
gảy trăng lên, nguồn ái ân trọn nghĩa trăm năm, truyện phong lưu chép thành một
lục, người đương vào cảnh ấy đã không gặp phải nỗi khảm kha bất bình, thì người
truyền lại việc ấy còn phải đặt ra truyện Đoạn trường tân thanh làm gì?
Chỉ vì dịp may dễ lỡ, việc tốt thường
sai, tiếng hoàn lặng ngắt, còn trơ bóng trúc lung lay; mặt ngọc vắng tênh, chỉ
thấy hoa đào hớn hở. Có tài mà không gặp được tài, có tình mà không hả được
tình; tài tình đã tuyệt thế, gặp toàn bước khảm kha, há không phải là con Tạo
đang tay ách người quá lắm ru? Ấy chính là truyện Đoạn trường tân thanh vì đấy
mà làm ra vậy.
Truyện Thuý Kiều chép ở trong lục
Phong tình, ta không bàn làm gì. Lục Phong tình cũng đã cũ rồi. Tố Như tử xem
truyện, thấy việc lạ, lại thương tiếc đến những nỗi trắc trở của kẻ có tài, bèn
đem dịch ra quốc âm, đề là Đoạn trường tân thanh, thành ra cái lục Phong tình
vẫn là cái lục cũ, mà cái tiếng Đoạn trường lại là cái tiếng mới vậy.
Trong một tập thì chung lấy bốn chữ
“Tạo vật đố tài” tóm cả một đời Thuý Kiều: khi lai láng tình thơ, người tựa án
khen tài châu ngọc; khi nỉ non tiếng nguyệt, khách dưới đèn đắm khúc tiêu tao;
khi duyên ưa kim cải, non bể thề bồi; khi đất nổi ba đào, cửa nhà tan tác; khi
lầu xanh, khi rừng tía, cõi đi về nghĩ cũng chồn chân; khi kinh kệ, khi can
qua, mùi từng trải nghĩ càng tê lưỡi. Vui, buồn, tan, hợp, mười mấy năm trời
trong cuốn văn tả như hệt, không khác gì một bức tranh vậy.
Xem chỗ giấc mộng đoạn trường tỉnh dậy mà căn
duyên vẫn gỡ chưa rồi; khúc đàn bạc mệnh gảy xong, mà oán hận vẫn còn chưa hả,
thì dẫu đời xa người khuất, không được mục kích tận nơi, nhưng lời văn tả ra
hình như máu chảy ở đầu ngọn bút, nước mắt thấm ở trên tờ giấy, khiến ai đọc
đến cũng phải thấm thía ngậm ngùi, đau đớn như đứt ruột, thế thì gọi tên là
Đoạn trường tân thanh cũng phải.
Ta lúc nhàn đọc hết cả một lượt, mới
lấy làm lạ rằng: “Tố Như tử dụng tâm đã khổ, tự sự đã khéo, tả cảnh đã hệt, đàm
tình đã thiết, nếu không phải có con mắt trông thấu cả sáu cõi, tấm lòng nghĩ
suốt cả nghìn đời, thì tài nào có cái bút lực ấy”. Bèn vui mà viết bài tựa này
Thuý Kiều khóc Đạm Tiên, Tố Như tử làm truyện
Thuý Kiều, việc tuy khác nhau mà lòng thì là một: người đời xưa thương người
đời trước, người đời nay thương người đời xưa, hai chữ tài tình thực là một cái
thông luỵ của bọn tài tử khắp trong gầm trời này vậy
Ta lấy một thiên mực nhạt, xa viếng
nàng Kiều, tuy lời văn quê kệch, không đủ sánh với bức giao thiên, song đủ tỏ
cái nợ sầu của hai chữ đa tình, tuy khác đời mà chung một dạ. May được nối ở
sau cuốn Tân thanh của Tố Như tử, cùng làm một khúc Đoạn trường để than khóc
người xưa.
Tháng hai, niên hiệu Minh Mạng, viết ở
Thán hoa hiên đất Hạc giang.
Tiên phong Mộng liên đường chủ nhân.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét