MAI HOA
玄光禪師
Huyền Quang thiền sư
Bài thơ ca ngợi vẻ đẹp của hoa mai. Trong quan niệm của người xưa, “Tùng-Cúc-Trúc-Mai” là tứ quý, tượng trưng cho bốn đức tính hay cũng là phẩm chất của bậc chính nhân quân tử. Trúc, tùng và mai chịu được sương giá tuyết lạnh nên gọi là Tuế Hàn Tam Hữu (Ba người bạn trong gió rét). Dù lạnh nhưng tùng trúc vẫn xanh tươi, mai vẫn nở hoa trắng muốt. Riêng hoa mai là biểu tượng của mùa xuân. Dẫu thân và cành gầy guộc, cánh hoa mỏng manh, mùi hương dịu dàng, thanh khiết; nhưng sức sống mãnh liệt và kiêu dũng. Nhờ vậy hoa mai bất chấp gió tuyết mùa đông, vẫn bung nở bao cánh hoa vàng vào mùa xuân. Với các nhà Nho, hoa mai là tấm gương về sự hòa hợp giữa chữ Dũng và chữ Nhẫn. Với người đời, hoa mai biểu tượng cho sự hiển vinh, cao thượng.
Hiểu quan niệm ấy
để thấy tại sao hai cầu đầu bài thơ, thi sỹ muốn ngẩng đầu hỏi trời sao hoa mai
có thể một mình vững chãi giữa núi tuyết. Và tại sao muốn mượn tứ xuân an ủi
ông lão ốm yếu thì phải bẻ cành mai.
Và hiểu tại sao một Thiền sư lại cảm xúc trước hoa mai để thơ ca bừng nở?
Và Cao Bá Quát lại: "Nhất sinh đê thủ bái mai hoa" (Suốt một đời chỉ vái lạy hoa mai".
Nguyên tác:
欲向蒼蒼問所從,
凜然孤峙雪山中。
折來不為遮青眼,
願借春思慰病翁。
Phiên âm:
MAI HOA
Dục hướng thương thương vấn sở tòng,
Lẫm nhiên cô trĩ tuyết sơn trung.
Chiết lai bất vị già thanh lãng,
Nguyên tá xuân tư ủy bệnh ông.
(Thơ văn Lý Trần,
Tập II, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1988)
Dịch nghĩa:
HOA MAI
Muốn ngẩng nhìn
trời xanh hỏi hoa mai từ đâu tới,
Lẫm liệt đứng sừng
sững một mình trong núi tuyết.
Bẻ về không phải
để che mắt những người tinh đời,
Chỉ mượn tứ xuân
an ủi ông già ốm yếu.
Dịch thơ:
Muốn hỏi hoa mai
đâu đến đây,
Giữa trời núi tuyết đứng thẳng ngay.
Bẻ về không phải lừa thức giả,
Cốt mượn tứ
xuân tặng lão này.
Hoàng Dục dịch
Đà Nẵng, 1-2021
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét