Thứ Tư, 19 tháng 5, 2021

675. HỮU SỞ TƯ KỲ II

Cầu Trường Tiền-Huế
HỮU SỞ TƯ KỲ 2

Đào Tấn

Thơ xưa vốn cô đọng. Sự cô đọng do thể cách thơ mà ra. Thất ngôn bát cú hàm súc một, tuyệt cú hàm súc hai, ngũ ngôn tứ tuyệt hàm súc gấp đôi. Chữ càng ít tư tưởng thơ càng nén. Bởi vậy cảm thơ xưa không phải dễ dàng. Người đọc phải vượt qua nhiều tường thành. Đầu tiên là tường thành ngôn ngữ, sau đó là bức tường thể loại và cuối cùng là chốt chặn tứ thơ.

Đọc ngũ ngôn tứ tuyệt của Đào Tấn cũng vậy. Người đọc phải vượt qua những trở lực nêu trên mới cảm được nỗi niềm tác giả nén trong thơ. Ở “Hữu sở tư kỳ 1”, nhà thơ nói hộ nỗi niềm cô đơn, nhớ thương chồng của người vợ. Còn ở bài thơ này, hình như là lời tâm tình của chính nhà thơ. Hai câu đầu tái hiện không gian cách ngăn. Hai câu sau là niềm nhớ sông Hương hay nhớ kinh đô Huế. Hai câu đầu là nguyên nhân nỗi nhớ. Hai câu sau là nỗi nhớ được biểu hiện kín đáo.  

Vậy chủ đề tư tưởng bài thơ là gì? Nỗi nhớ sông Hương chăng? Hay là tình yêu cái đẹp của tạo vật quê hương? Hay có một chủ đề khác?

Cánh cửa vào ngôi đền thơ luật khó mở làm sao!

Nguyên tác:

  




Phiên âm:

HỮU SỞ TƯ KỲ 2

Dục thiệp bất đắc khứ,

Mang mang túc yên vụ.

Hương giang đa phương thảo,

Hà tầm thái hành đỗ.

Dịch nghĩa:

NIỀM NHỚ  2

Muốn đến nhưng không đến được,

Bởi khói mù dày đặc.

Sông Hương lắm cỏ thơm,

Lòng nào lại đi tìm cỏ lạ.

Dịch thơ:

NIỀM NHỚ 2

Muốn đến mà chẳng được,

Mênh mang khói mù đặc.

Sông Hương nhiều cỏ thơm,

Sao lại tìm nơi khác.

Hoàng Dục dịch

5-2021 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét