Mỗi lần đọc Nguyễn Ngọc Tư là một lần dậy lên cảm giác thích thú như được nếm hương vị chè thốt nốt; như ăn so đũa, bông bí, bông điên điển… luộc với nước mắm kho quẹt. Chuyện chỉ là những hiện tượng đời thường ở miền Tây, xẩy ra vào nhiều thời điểm, cứ quanh quất như khói đốt đồng, nhưng kể theo kiểu Nguyễn Ngọc Tư nên rất ý vị. Thưởng thức “Miền Tây không có gì lạ” của nữ văn sĩ này là gặp lại cảm giác ấy nên gấp sách vẫn còn dư âm.
Thực ra, hiện thực phản ánh trong “Miền Tây không có gì lạ” đã cũ và đang cũ. Mặc dù vậy, truyện vẫn có sức hấp dẫn riêng nhờ vào cách kể, giọng kể mang nét duyên của người miền Tây. Chẳng hạn trong cách đặt nhan đề nghe quen quen. “Miền Tây không có gì lạ” phải chăng là bản sao cái nghịch lí của “Mặt trận miền Tây vẫn yên tĩnh” (All quiet on the Western front) của Erich Maria Remarque. Miền Tây yên tĩnh nhưng đầy chết chóc. Miền Tây không có gì lạ nhưng có nhiều chuyện không giống ai, rất khác thường, chệch lề trật hướng. Ừ, thì truyện nào lại không có xung đột. Không xung đột mâu thuẫn trong chuyện làm sao thành truyện. Đã đành là thế, nhưng đây là cái nghịch dị được cho là bình thường nên thành ra mộng triệu bất thường.
Truyện mở đầu bằng lời kể của một chị con dâu nào đó về hai ông “nhậu đến độ hăng”, cao hứng đổi vợ cho mới. Chuyện tưởng đùa hóa thật. Nghe chuyện, nhân vật tôi lúc đầu nghĩ là đồn thổi, rồi chuyển sang ngờ ngợ, rồi niềm tin lung lay và đi đến khái quát “Miền Tây chẳng gì là không thể”. Nói cách khác, lối dẫn truyện của nhà văn đi từ một hiện tượng rồi khái quát lên, xâu chuỗi nhiều hiện tượng khác đang diễn ra trong cái bình thường, đời thường miền Tây bằng giọng kể hoài nghi. Mà cũng đúng, làm sao người kể chuyện không nghi ngờ niềm tin của chính mình cho được. Sự thật rành rành ra đó. Vào cái thuở xa xưa, ông công tử Bạc Liêu “đốt tiền nịnh gái”. Gần gần một chút là chuyện năm ông nhậu ngất trời “kích nhau bơi qua sông, hai trong số ấy mãi mãi không lên bờ nữa”, chuyện chủ dùng nhục hình với thằng nhỏ ở đợ, chuyện chữa ung thư bằng vuốt ve của “hồn cô Ba, xác chú Chín”, chuyện cả ấp không ai vượt qua nửa chương trình lớp bốn… Còn bây giờ là “chuyện những cô gái lấy chồng ngay sau cuộc gặp chú rể một ngày, gọi tên nhau còn trật lất”, chuyện lúa rớt giá, nông dân chuyển sang trồng mía, mía chẳng ma nào hỏi mua thì “chất thành đống đốt cho khói lên trời”.
Nhiều chuyện chứng minh cho mệnh đề “Miền Tây chẳng gì là không thể” được tác giả cấu trúc theo lối truyện trong truyện, nghe chừng… rất không chủ tâm, không muốn kể, vì lỡ nghe người ta kể trên xe đò liên huyện nên nối lời thế thôi. Thế nhưng, nhà văn nào có thể quay mặt bít lòng được. Này nhé, thói thường nghe những chuyện không tốt của ai đó chứ không phải của mình, người ta lập tứ nanh nọc lên án, sưng sĩa phê bình. Còn tác giả thì không, yêu thương miền Tây, con người quê hương, nên tìm cách bào chữa cho những gì mình yêu thương. Nhà văn tìm cho lối sống ấy một tên gọi rõ ràng, chính xác nhưng không nỡ. Chính xác sẽ chạm vào nỗi đau nên đành đành nước đôi khái niệm “ “chịu chơi – liều mạng”, “vô cảm – bất chấp”, “sống hết mình – sống không có gì để mất”, “bán – mua”…
Không chỉ Nguyễn Ngọc Tư đau mà người đọc cũng xót, chẳng tin những gì mình thấy qua câu chữ của “Miền Tây không có gì lạ”. Miền Tây và con người miền Tây trong “Hương rừng Cà Mau” của Sơn Nam, trong “Chú Tư Cầu” của Lê Xuyên, trong văn của Bình Nguyên Lộc, của Nguyễn Hiến Lê, của Hồ Biểu Chánh… không hề như thế. Con người Nam Bộ trong văn Hồ Biểu Chánh là con người đạo lí. Làm sao người đọc có thể quên Cai tuần Bưởi, Thị Tố, những con người chơn chất nhưng tình nghĩa trong “Con nhà nghèo” . Cũng khó quên một cha con Trần Văn Sửu, Hương Thị Tào trong “Cha con nghĩa nặng”, những con người không hề đánh tráo nhân cách, sống trong suốt như thủy tinh. Hay ai đã một lần đọc Sơn Nam sẽ không quên phái viên báo “Chim Trời” với độc giả Trần Văn Có ở miệt Hậu Giang, hai con người tri âm kiểu “Quốc văn giáo khoa thư” trong “Tình nghĩa giao khoa thư”; cũng không thể không xúc cảm trước tấm chung tình của “Con Bảy đưa đò”, người con gái sông nước miền Tây đem cả đời mình chờ đợi một “một tấm lòng” của người khách hò: “- Ờ nàng ơi ! Kiến nghĩa bất vi vô dõng giã, lâm nguy bất cứu mạc anh hùng. Nàng còn nghĩ phận chữ tùng, thì trao dây xích buộc vòng sau đây”… Chàng trai nói “cần một tấm lòng” ngày xưa đâu mất hút, nay chỉ còn bà Bảy về già “ngồi đây mà nhớ đến cái thời xuân xanh năm nào ! Nó như chiếc lá già rụng, mục nát trở về lòng đất để làm phân cho nghững cây tơ khác đâm lộc nẩy hoa.”
Không những đẹp trong trang văn xưa, con người miền Tây đẹp ngay cả giữa đời thực, đó là vẻ đẹp của những con người trong gia đình Biện Toại qua vụ áng Nọc Nạn huyện Giá Rai, tỉnh Bạc Liêu năm 1928. Và trong văn Nguyễn Ngọc Tư cũng hiện hữu những con người miền Tây chân mộc, tình nghĩa, không xa rời đạo lí. Có thể cảm nhận điều đó qua nhân vật ông Năm Nhỏ bằng mọi cách, kể cả hạ sách ăn trộm trâu để tìm cho bằng được con Cải, đứa con gái riêng của vợ mà ông đã nuôi nấng từ tấm bé trong “Ơi Cải về đâu”. Hoặc qua nhân vật tôi không muốn đi máy bay, chỉ muốn đi “Xe miền Tây” để được sống với ba đặc sản miền Tây: nhạc bolero hay vọng cổ, mùi dầu gió Nhị Thiên Đường, Trường Sơn, và người miền Tây. Hay cô Nga trong “Thương quá rau răm” ở tuốt cù lao Mút Cà Tha dành trọn vẹn tình cảm của mình cho Văn, nhưng rất sợ “nói chuyện yêu thương dễ ợt, giòn rụm”.
Nhìn lại văn chương và hiện thực đời sống đã qua để thông cảm với Nguyễn Ngọc Tư, tại sao phải bày biện chữ nghĩa ra cố tìm một từ diễn tả chính xác tính cách con người miền Tây nhưng lúng ta lúng túng. Hay khái quát những chuyện xẩy ra ở miền Tây có phần thiếu thuyết phục vì đánh đồng cái đặc thù với cái phổ biến. Chuyện đổi vợ, chuyện công tử Bạc Liêu, chuyện khích nhau lội sông… chỉ là nhưng hiện tượng cá biệt. Chuyện cả làng học vấn chỉ nửa chừng lớp bốn, chuyện các cô gái đua nhau lấy chồng xa, đua nhau làm việc trong phòng tối, không chỉ trên nước Việt mà ngoài nước Việt nữa là cái phổ biến.
Thế nhưng, bên cạnh sự lúng túng vẫn có cụ thể, rõ ràng. Trong cái nhìn hiện thực của nhà văn, hình như có sự phân ranh thời đoạn thay đổi lịch sử văn hóa miền Tây. Sự phân ranh đó qua lời than của lớp người gìa: “quỷ thần ơi, vợ chồng với nhau đâu phải cái áo” và qua chữ “đang” hiện ra âm thầm mà khốc liệt trong câu văn giọng xa xót: “những giá trị đạo đức đang sấp ngửa đến độ nào”. Không chỉ ở “Miền Tây không có gì lạ” mà trong “Quê hương Đất Mũi mù xa”, cái nhìn của Nguyễn Ngọc Tư đã có sự phân tuyến tương phản xưa-nay. Xưa “người Đất Mũi rặt đã thương là thương trọn, đã nhớ thì nhớ sâu, đã sầu thì dai dẳng. Hết thảy đều không thể nửa vời”. Nay “một làn sóng di cư của hàng trăm, hàng ngàn người từ nơi khác tới, … phá rừng, càn quét bãi bồi” nên “người Đất Mũi khép cửa lòng tin…”. Quá khứ đã sinh thành và gìn giữ truyền thống, thực tại đang chối bỏ truyền thống một cách phũ phàng.
Bảo rằng sự chối bỏ ấy là do tính cách chịu chơi của người miền Tây thì chẳng ổn chút nào. Bảo rằng người miền Tây chịu chơi nên hào phóng, hiếu khách, điều đó chẳng cần bàn. Bảo rằng một đợt nâng li là khách biết có bao nhiêu lúa trong bồ, đợt nâng li thứ hai, biết có mấy cây vàng dưới đáy tủ, cái tính vô tư hết mình ấy của người miền Tây cũng không ai phủ nhận. Nhưng nếu bảo do cái máu giang hồ sông nước, do cái máu chịu chơi nên các cô gái miền Tây chỉ “là món hàng” nhưng trước những thằng đàn ông không thể lấy vợ trên chính quê hương mình, phải sang tận Việt Nam mua hàng giá rẻ, các cô “lại háo hức, rạng rỡ như thể đã lấy đúng người mình yêu”, “Mấy cô dâu Việt bỏ mạng bởi bạo hành ở xứ người chẳng ngăn nổi tụi con gái ùn ùn xếp hàng chờ đàn ông ngoại quốc săm soi coi mắt”, xem ra làm rối tung rối mù lẩn lộn cái tốt với cái xấu mất rồi. Nên chăng mượn nhưng câu thơ của Hoài Tường Phong để cắt nghĩa cho sự đổi thay đáng buồn này.
Đồng bằng quê hương tôi nhiều cái nhất ngậm ngùi:
Sản lượng lúa nhiều, vùng cá ba sa lớn nhất,
Đầu tư văn hóa thấp và khó nghèo cũng nhất,
Và cũng dẫn đầu, những cô gái lấy chồng xa. (Trăng nghẹn)
Như trên đã nói đừng trách gì Nguyễn Ngọc Tư. Nếu truyện mà rõ như một cọng một bằng hai thì còn gì là truyện. Hơn nữa, truyện là một cấu trúc đối thoại, người viết mong đợi sự đối thoại của người đọc để tìm ra sự thật bên trong của hiện thực phản ánh. Nhà văn chỉ là người trần thuật khách quan chứ không vô tâm. Cho nên, dù Nguyễn Ngọc Tư có viết bằng giọng buông xuôi “Cả cái day dứt của tôi hồi mười năm trước khi nghe tiếng tiếp viên trong quán tối, giờ cũng phai màu” hay bằng giọng băn khoăn “nhưng đêm nằm ngẫm nghĩ, cái dửng dưng kiểu này, là bởi ta vô cảm hay do miền Tây vốn chẳng có chuyện lạ nào?” thì đừng tin nhà văn vô cảm, người miền Tây vô cảm. Đã là con người làm sao vô cảm được. Đừng gán từ đó cho con người. Những cô gái miền Tây chật lưỡi ơ hờ trước cái chết của những cô dâu Việt ở xứ người rồi chính họ làm dâu xứ người nói như Nguyễn Ngọc Tư, họ đang đi trên cầu khỉ, đi vào khoảng tối mù của tương lai, bởi họ không có gì để mất. Con người sống mà chẳng có tí giá trị gì đó là một bi kịch. Con người sống theo kiểu “cũng liều nhắm mắt đưa chân” là vấn nạn xã hội, một vấn nạn dành cho những ai không xa lạ với nhân dân với con người.
“Miền Tây không có gì lạ” là một tác phẩm có tính thời sự, tái hiện một hiện thực không mới ở miền Tây bằng những phương tiện nghệ thuật riêng của Nguyễn Ngọc Tư qua cách kể, giọng kể, ngôn từ… đã đặt ra vấn đề nhức nhối, vấn đề nhiễm bẩn văn hóa truyền thống ở miền Tây, vấn đề “vô cảm” của những ai có trách nhiệm bảo vệ, chấn hưng truyền thống văn hóa đó. “Miền Tây không có gì lạ” như thế là… rất lạ!
Hoàng Dục
26-8-2013
____________________
Truyện mở đầu bằng lời kể của một chị con dâu nào đó về hai ông “nhậu đến độ hăng”, cao hứng đổi vợ cho mới. Chuyện tưởng đùa hóa thật. Nghe chuyện, nhân vật tôi lúc đầu nghĩ là đồn thổi, rồi chuyển sang ngờ ngợ, rồi niềm tin lung lay và đi đến khái quát “Miền Tây chẳng gì là không thể”. Nói cách khác, lối dẫn truyện của nhà văn đi từ một hiện tượng rồi khái quát lên, xâu chuỗi nhiều hiện tượng khác đang diễn ra trong cái bình thường, đời thường miền Tây bằng giọng kể hoài nghi. Mà cũng đúng, làm sao người kể chuyện không nghi ngờ niềm tin của chính mình cho được. Sự thật rành rành ra đó. Vào cái thuở xa xưa, ông công tử Bạc Liêu “đốt tiền nịnh gái”. Gần gần một chút là chuyện năm ông nhậu ngất trời “kích nhau bơi qua sông, hai trong số ấy mãi mãi không lên bờ nữa”, chuyện chủ dùng nhục hình với thằng nhỏ ở đợ, chuyện chữa ung thư bằng vuốt ve của “hồn cô Ba, xác chú Chín”, chuyện cả ấp không ai vượt qua nửa chương trình lớp bốn… Còn bây giờ là “chuyện những cô gái lấy chồng ngay sau cuộc gặp chú rể một ngày, gọi tên nhau còn trật lất”, chuyện lúa rớt giá, nông dân chuyển sang trồng mía, mía chẳng ma nào hỏi mua thì “chất thành đống đốt cho khói lên trời”.
Nhiều chuyện chứng minh cho mệnh đề “Miền Tây chẳng gì là không thể” được tác giả cấu trúc theo lối truyện trong truyện, nghe chừng… rất không chủ tâm, không muốn kể, vì lỡ nghe người ta kể trên xe đò liên huyện nên nối lời thế thôi. Thế nhưng, nhà văn nào có thể quay mặt bít lòng được. Này nhé, thói thường nghe những chuyện không tốt của ai đó chứ không phải của mình, người ta lập tứ nanh nọc lên án, sưng sĩa phê bình. Còn tác giả thì không, yêu thương miền Tây, con người quê hương, nên tìm cách bào chữa cho những gì mình yêu thương. Nhà văn tìm cho lối sống ấy một tên gọi rõ ràng, chính xác nhưng không nỡ. Chính xác sẽ chạm vào nỗi đau nên đành đành nước đôi khái niệm “ “chịu chơi – liều mạng”, “vô cảm – bất chấp”, “sống hết mình – sống không có gì để mất”, “bán – mua”…
Không chỉ Nguyễn Ngọc Tư đau mà người đọc cũng xót, chẳng tin những gì mình thấy qua câu chữ của “Miền Tây không có gì lạ”. Miền Tây và con người miền Tây trong “Hương rừng Cà Mau” của Sơn Nam, trong “Chú Tư Cầu” của Lê Xuyên, trong văn của Bình Nguyên Lộc, của Nguyễn Hiến Lê, của Hồ Biểu Chánh… không hề như thế. Con người Nam Bộ trong văn Hồ Biểu Chánh là con người đạo lí. Làm sao người đọc có thể quên Cai tuần Bưởi, Thị Tố, những con người chơn chất nhưng tình nghĩa trong “Con nhà nghèo” . Cũng khó quên một cha con Trần Văn Sửu, Hương Thị Tào trong “Cha con nghĩa nặng”, những con người không hề đánh tráo nhân cách, sống trong suốt như thủy tinh. Hay ai đã một lần đọc Sơn Nam sẽ không quên phái viên báo “Chim Trời” với độc giả Trần Văn Có ở miệt Hậu Giang, hai con người tri âm kiểu “Quốc văn giáo khoa thư” trong “Tình nghĩa giao khoa thư”; cũng không thể không xúc cảm trước tấm chung tình của “Con Bảy đưa đò”, người con gái sông nước miền Tây đem cả đời mình chờ đợi một “một tấm lòng” của người khách hò: “- Ờ nàng ơi ! Kiến nghĩa bất vi vô dõng giã, lâm nguy bất cứu mạc anh hùng. Nàng còn nghĩ phận chữ tùng, thì trao dây xích buộc vòng sau đây”… Chàng trai nói “cần một tấm lòng” ngày xưa đâu mất hút, nay chỉ còn bà Bảy về già “ngồi đây mà nhớ đến cái thời xuân xanh năm nào ! Nó như chiếc lá già rụng, mục nát trở về lòng đất để làm phân cho nghững cây tơ khác đâm lộc nẩy hoa.”
Không những đẹp trong trang văn xưa, con người miền Tây đẹp ngay cả giữa đời thực, đó là vẻ đẹp của những con người trong gia đình Biện Toại qua vụ áng Nọc Nạn huyện Giá Rai, tỉnh Bạc Liêu năm 1928. Và trong văn Nguyễn Ngọc Tư cũng hiện hữu những con người miền Tây chân mộc, tình nghĩa, không xa rời đạo lí. Có thể cảm nhận điều đó qua nhân vật ông Năm Nhỏ bằng mọi cách, kể cả hạ sách ăn trộm trâu để tìm cho bằng được con Cải, đứa con gái riêng của vợ mà ông đã nuôi nấng từ tấm bé trong “Ơi Cải về đâu”. Hoặc qua nhân vật tôi không muốn đi máy bay, chỉ muốn đi “Xe miền Tây” để được sống với ba đặc sản miền Tây: nhạc bolero hay vọng cổ, mùi dầu gió Nhị Thiên Đường, Trường Sơn, và người miền Tây. Hay cô Nga trong “Thương quá rau răm” ở tuốt cù lao Mút Cà Tha dành trọn vẹn tình cảm của mình cho Văn, nhưng rất sợ “nói chuyện yêu thương dễ ợt, giòn rụm”.
Nhìn lại văn chương và hiện thực đời sống đã qua để thông cảm với Nguyễn Ngọc Tư, tại sao phải bày biện chữ nghĩa ra cố tìm một từ diễn tả chính xác tính cách con người miền Tây nhưng lúng ta lúng túng. Hay khái quát những chuyện xẩy ra ở miền Tây có phần thiếu thuyết phục vì đánh đồng cái đặc thù với cái phổ biến. Chuyện đổi vợ, chuyện công tử Bạc Liêu, chuyện khích nhau lội sông… chỉ là nhưng hiện tượng cá biệt. Chuyện cả làng học vấn chỉ nửa chừng lớp bốn, chuyện các cô gái đua nhau lấy chồng xa, đua nhau làm việc trong phòng tối, không chỉ trên nước Việt mà ngoài nước Việt nữa là cái phổ biến.
Thế nhưng, bên cạnh sự lúng túng vẫn có cụ thể, rõ ràng. Trong cái nhìn hiện thực của nhà văn, hình như có sự phân ranh thời đoạn thay đổi lịch sử văn hóa miền Tây. Sự phân ranh đó qua lời than của lớp người gìa: “quỷ thần ơi, vợ chồng với nhau đâu phải cái áo” và qua chữ “đang” hiện ra âm thầm mà khốc liệt trong câu văn giọng xa xót: “những giá trị đạo đức đang sấp ngửa đến độ nào”. Không chỉ ở “Miền Tây không có gì lạ” mà trong “Quê hương Đất Mũi mù xa”, cái nhìn của Nguyễn Ngọc Tư đã có sự phân tuyến tương phản xưa-nay. Xưa “người Đất Mũi rặt đã thương là thương trọn, đã nhớ thì nhớ sâu, đã sầu thì dai dẳng. Hết thảy đều không thể nửa vời”. Nay “một làn sóng di cư của hàng trăm, hàng ngàn người từ nơi khác tới, … phá rừng, càn quét bãi bồi” nên “người Đất Mũi khép cửa lòng tin…”. Quá khứ đã sinh thành và gìn giữ truyền thống, thực tại đang chối bỏ truyền thống một cách phũ phàng.
Bảo rằng sự chối bỏ ấy là do tính cách chịu chơi của người miền Tây thì chẳng ổn chút nào. Bảo rằng người miền Tây chịu chơi nên hào phóng, hiếu khách, điều đó chẳng cần bàn. Bảo rằng một đợt nâng li là khách biết có bao nhiêu lúa trong bồ, đợt nâng li thứ hai, biết có mấy cây vàng dưới đáy tủ, cái tính vô tư hết mình ấy của người miền Tây cũng không ai phủ nhận. Nhưng nếu bảo do cái máu giang hồ sông nước, do cái máu chịu chơi nên các cô gái miền Tây chỉ “là món hàng” nhưng trước những thằng đàn ông không thể lấy vợ trên chính quê hương mình, phải sang tận Việt Nam mua hàng giá rẻ, các cô “lại háo hức, rạng rỡ như thể đã lấy đúng người mình yêu”, “Mấy cô dâu Việt bỏ mạng bởi bạo hành ở xứ người chẳng ngăn nổi tụi con gái ùn ùn xếp hàng chờ đàn ông ngoại quốc săm soi coi mắt”, xem ra làm rối tung rối mù lẩn lộn cái tốt với cái xấu mất rồi. Nên chăng mượn nhưng câu thơ của Hoài Tường Phong để cắt nghĩa cho sự đổi thay đáng buồn này.
Đồng bằng quê hương tôi nhiều cái nhất ngậm ngùi:
Sản lượng lúa nhiều, vùng cá ba sa lớn nhất,
Đầu tư văn hóa thấp và khó nghèo cũng nhất,
Và cũng dẫn đầu, những cô gái lấy chồng xa. (Trăng nghẹn)
Như trên đã nói đừng trách gì Nguyễn Ngọc Tư. Nếu truyện mà rõ như một cọng một bằng hai thì còn gì là truyện. Hơn nữa, truyện là một cấu trúc đối thoại, người viết mong đợi sự đối thoại của người đọc để tìm ra sự thật bên trong của hiện thực phản ánh. Nhà văn chỉ là người trần thuật khách quan chứ không vô tâm. Cho nên, dù Nguyễn Ngọc Tư có viết bằng giọng buông xuôi “Cả cái day dứt của tôi hồi mười năm trước khi nghe tiếng tiếp viên trong quán tối, giờ cũng phai màu” hay bằng giọng băn khoăn “nhưng đêm nằm ngẫm nghĩ, cái dửng dưng kiểu này, là bởi ta vô cảm hay do miền Tây vốn chẳng có chuyện lạ nào?” thì đừng tin nhà văn vô cảm, người miền Tây vô cảm. Đã là con người làm sao vô cảm được. Đừng gán từ đó cho con người. Những cô gái miền Tây chật lưỡi ơ hờ trước cái chết của những cô dâu Việt ở xứ người rồi chính họ làm dâu xứ người nói như Nguyễn Ngọc Tư, họ đang đi trên cầu khỉ, đi vào khoảng tối mù của tương lai, bởi họ không có gì để mất. Con người sống mà chẳng có tí giá trị gì đó là một bi kịch. Con người sống theo kiểu “cũng liều nhắm mắt đưa chân” là vấn nạn xã hội, một vấn nạn dành cho những ai không xa lạ với nhân dân với con người.
“Miền Tây không có gì lạ” là một tác phẩm có tính thời sự, tái hiện một hiện thực không mới ở miền Tây bằng những phương tiện nghệ thuật riêng của Nguyễn Ngọc Tư qua cách kể, giọng kể, ngôn từ… đã đặt ra vấn đề nhức nhối, vấn đề nhiễm bẩn văn hóa truyền thống ở miền Tây, vấn đề “vô cảm” của những ai có trách nhiệm bảo vệ, chấn hưng truyền thống văn hóa đó. “Miền Tây không có gì lạ” như thế là… rất lạ!
Hoàng Dục
26-8-2013
____________________
PHỤ LỤC
Miền Tây không có gì lạ
Nguyễn
Ngọc Tư
Rượu đến
độ hăng, cuộc nhậu cũng đủ lâu, hai nhà cùng xóm rủ rê đổi vợ chồng cho… mới,
chung đụng cũ xèo hoài chán thấy mồ. Những người chứng kiến tưởng vì rượu nói
chơi cho vui, nhưng sáng hôm sau hai bà vợ tỉnh bơ xách gói chuyển sang nhà của
nhau sống với chiếu giường mới mẻ. Họ nói hết tháng ai lại về chỗ nấy, có sao
đâu. Người kể chuyện nhẩm đếm bữa nay nữa là mười ba ngày họ đổi ngôi, chị nhớ
vì buổi nhậu ấy ngay dịp đám giỗ má chồng mình.
Mấy câu chuyện
kỳ khôi bạt mạng kiểu vậy vẫn thường lửng lơ trên những chuyến xe buýt ngược
xuôi liên huyện. Chỉ mấy bà già là còn kêu quỷ thần ơi, vợ chồng với nhau đâu
phải cái áo. Nỗi mệt đường dài bay biến, thay vào đó là hoang mang, tự hỏi
những gì xảy ra dưới gầm trời này ta biết được bao nhiêu, những giá trị đạo đức
đang sấp ngửa đến độ nào. Hồi đầu tôi thường phản ứng bằng ý nghĩ thiên hạ đồn
thổi chơi thôi, chắc gì thiệt. Giờ thì ngờ ngợ, biết đâu đó.
Miền Tây chẳng
gì là không thể. Người ta vẫn kể chuyện năm ông nhậu xỉn kích nhau bơi qua
sông, hai trong số ấy mãi mãi không lên bờ nữa. Chuyện thằng nhỏ đi ở đợ, bị
chủ hành hạ bằng những nhục hình thời trung cổ. Chuyện hồn cô Ba xác chú Chín
chữa ung thư bằng vuốt ve. Chuyện cả một ấp xóm mấy chục nóc gia nhưng người học
cao nhất chỉ đến nửa chừng lớp bốn. Chuyện lúa rớt giá cả vùng rủ nhau trồng
mía, mùa sau mía chẳng ai mua họ chất thành đống đốt cho khói lên trời. Chuyện
những cô gái lấy chồng ngay sau cuộc gặp chú rể một ngày, gọi tên nhau còn trật
lất. Có sao đâu, dân miền Tây chịu chơi mà. Ai quan tâm lằn ranh của chịu chơi
và liều mạng.
Bạn có lần dỗ dành, nói viễn Tây
nước Mỹ, miền Tây nước Pháp cũng là xứ chịu chơi đó chớ, “mà dân miền Tây cá gô
gột gẹt của em có máu lưu xứ giang hồ trong người, sẵn sàng bỏ xứ sở đất đai,
đền đài để ra đi tìm đất mới, may mà biển kìm chân chứ không thì chẳng biết họ
dừng lại ở đâu”. Ờ, chắc nhờ chịu chơi nên mới có miền đồng bằng trù phú bây
giờ, cú đốt tiền nịnh gái của công tử Bạc Liêu mới đi vào kinh điển, dân sông
nước mới từ bỏ cái Kohler tịch tang cải tiến máy xe chạy vỏ lải xé gió lở bờ.
Cái hiếu
khách, phóng khoáng cũng từ chịu chơi. Ghé một nhà bất kỳ, cuộc nhậu lập tức
bày ra, sau ba ly rượu xình xang ta sẽ biết có bao nhiêu lúa trong bồ, thêm ba
ly nữa biết có bao nhiêu vàng dưới đáy tủ. Phơi bày, dù mới gặp lần đầu. Và vì
chịu chơi nên đi đâu tôi cũng nghe giọng con gái xứ mình. Cả cái day dứt của
tôi hồi mười năm trước khi nghe tiếng tiếp viên trong quán tối, giờ cũng phai
màu. Có gì lạ đâu, nổi trôi bất tận.
Dường như
không gì khiến người xứ này day dứt lâu. Mấy cô dâu Việt bỏ mạng bởi bạo hành ở
xứ người chẳng ngăn nổi tụi con gái ùn ùn xếp hàng chờ đàn ông ngoại quốc săm
soi coi mắt. Những cái chết chẳng gây xáo động là bao, ngoài cái tặc lưỡi ơ hờ,
“chậc, sống chết có số hết, đâu phải cô dâu nào cũng giống cô dâu nào. Có sao
đâu”. Viết báo cứ phân vân không biết gọi sao cho chính xác, vô cảm hay bất
chấp, hết mình hay sống không có gì để mất. Nói là “bán mua” cứ sợ quá lời, khi
người con gái mà ta mỉa mai là món hàng lại háo hức, rạng rỡ như thể đã lấy
đúng người mình yêu.
Mỗi lần nhìn
những con người lem luốc, quê mùa lơ ngơ trên bến xe miền Tây, rõ ràng là chỗ
ấy đất bằng gió bụi nhưng như nhìn thấy họ đi cầu khỉ. Chênh vênh chới với trên
thân cây nhỏ giữa dòng. Tâm thế qua cầu khỉ là cứ đi đã, đến bờ bên kia được
hay không, có rơi xuống sông không, tính sau. Như những đứa nhỏ phải bỏ học vì
không có tiền đi đò, chẳng ai nghĩ đó là một cú đóng sập cửa của mặt trời chi
cho ghê gớm. Không học nữa thì đi mót lúa, cắm câu. Có sao đâu. Xứ này ưa nói
“mút mùa Lệ Thuỷ”, “quăng nguyên con”, “chơi tới sáng” nên cũng có những cụm từ
tự an ủi lúc thương đau: “có sao đâu”, “nhằm nhò gì ba cái lẻ tẻ”.
Dân gian miền
Tây ít hoặc không xài “thảng thốt”. Kể cả một bữa ta nghe tin thằng bạn dưới
quê đang nằm viện ở Sài Gòn, vì biến chứng sau vụ tự bơm silicon vào cúc cu cho
hoành tráng. Mắc cười, nhưng không kinh ngạc. Ta nhớ thằng đó hồi nhỏ cũng hụt
chết một lần vì nuốt trộng con cóc sống, chỉ để chứng tỏ anh hùng. Nhưng đêm
nằm ngẫm nghĩ, cái dửng dưng kiểu này, là bởi ta vô cảm hay do miền Tây vốn
chẳng có chuyện lạ nào?
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét