Thứ Sáu, 21 tháng 9, 2012

350. ĐỨC TIN TRONG NGUỒN THƠ HÀN MẶC TỬ - ĐẶNG TIẾN

Bài này do một người bạn gửi tặng.
"Đức tin trong nguồn thơ Hàn Mặc Tử" được Đặng Tiến viết và đăng trên tạp chí "Văn" ở Sài Gòn năm 1970. Năm nay, nhân 100 năm Hàn Mặc Tử, nhà phê bình đã bổ sung. Xin đăng lên đây để các bạn cùng thưởng thức, nhưng bài khá dài nên tạm đăng làm hai kì. Mong có sự đồng cảm.
                                                      HD, 21-9-2012
                      __________________

      Hàn Mạc Tử tên thật là Nguyễn Trọng Trí, sinh ngày 22 tháng 9 năm 1912, tại thị xã Đồng Hới, chính xác là làng Lệ Mỹ, tổng Võ Xá, huyện Phong Lộc, tỉnh Quảng Bình, trong một gia đình công chức, công giáo thuần thành. Rửa tội tại giáo xứ Tam Tòa, Đồng Hới, ngày 25-9-1912, tên thánh là Phan xi Cô (François). Thêm sức tại nhà thờ Quy Nhơn, 1933, dưới tên Phan xi cô Xa- viê. Học tại Quảng Ngãi, Qui Nhơn. Ra Huế, học trường thầy dòng Pellerin (Bình Linh) xong năm thứ nhất bậc trung học, 1930, thì thôi học. Về ở Quy Nhơn. Làm sở đạc điền được ít lâu, sau  bỏ sở. Vô Sài Gòn, 1934, làm báo một thời gian, trợ bút cho báo Sài Gòn, rồi trở về Qui Nhơn 1936, khi sức khỏe sa sút.
      Bắt đầu làm thơ Đường từ năm mười lăm tuổi, ký nhiều bút hiệu: Minh Duệ Thị, Phong Trần, Lệ Thanh. Từ 1935 chuyên làm thơ mới, ký Hàn Mặc Tử, cuối cùng là Hàn Mạc Tử. Đã đăng thơ trên các báo Phụ nữ Tân văn, Sài Gòn, Trong khuê phòng, Đông Dương tuần báo, Tân thời, Người mới. Chứng bịnh phong cùi hiểm nghèo buộc ông phải sống ẩn tránh, trong đau đớn cả tinh thần, thân xác lẫn vật chất, nhưng đã đem đến cho Hàn Mạc Tử nhiều thi tứ đặc biệt, thanh thoát, như một vùng trú ẩn cần thiết cho cõi linh hồn đau khổ triền miên.
      Thi phẩm  đã công bố : Gái Quê (Tự xuất bản, in tại nhà in Tân Dân, Hà Nội,1936, 34 bài thơ, tựa của Phạm Văn Ký); Thơ Hàn Mạc Tử  (Tuyển tập, nxb Đông Phương, Hà Nội, 1942, tranh vẽ của Phạm Tú. Nhà Tân Việt, Sài Gòn, tái bản, 1959).
      Tại trại phong Qui Hòa, ngoại thành Quy Nhơn, Hàn Mạc Tử trút linh hồn ngày 11 tháng 11 năm 1940, hưởng dương 28 tuổi, được mai táng ngay hôm đó tại nghĩa địa trại Quy Hòa. Số phận ngắn ngủi của ông là một thiệt thòi lớn cho nền văn học đất nước, vì ông được coi như một nguồn thơ tinh khôi và kỳ lạ bậc nhất trong thi ca hiện đại. Đặc biệt là nguồn thơ cảm hứng từ đức tin Thiên Chúa, và phản ánh đức tin này qua tác phẩm, là đề tài cho chuyên luận dưới đây.
                                               *
     Cuối 1942, trong Nhà văn hiện đại, Vũ Ngọc Phan đã nhận xét: ‘Từ ngày Hàn Mạc Tử từ trần đến nay, mới trong khoảng hai năm trời mà người ta đã nói rất nhiều, viết rất nhiều về Hàn Mạc Tử”.
     Và đến nay, bao nhiêu giấy mực đã  được dành cho nhà thơ bạc mệnh. Có lẽ ở miền Nam, Hàn Mạc Tử là thi sĩ  được nhắc nhở nhiều nhất. Nhưng e rằng dù vậy sự hiểu biết của chúng ta về thi tài đó vẫn không tiến bộ được bao nhiêu. Có lẽ lại lùi lại nữa là khác. Năm 1941, Hoài Thanh muốn nói đến Hàn Mạc Tử đã hỏi mượn thơ do Trần Thanh Địch giữ. Cùng năm đó, khi viết cuốn Hàn Mạc Tử, có lẽ Trần Thanh Mại cũng dùng nguồn tài liệu đó, tức là của em mình. Ngày nay, 1970, ngoài tập Thơ Hàn Mạc Tử mỏng manh của nhà xuất bản Tân Việt tái bản 1959, chúng ta không còn thi liệu nào khác. Chính Quách Tấn, bạn thân, ân nhân, người đã được nhà thơ ký thác trọn vẹn tác phẩm, cũng tỏ vẻ không có nhiều tài liệu hơn chúng ta. Trong bài nói về nhà thơ quá cố đăng trên Văn, Quách Tiên sinh, khi trích thơ Hàn Mạc Tử  đã làm một việc mà ai cũng làm được, như Vũ Ngọc Phan đã làm, nghĩa là trích từ tập thơ in 1942 kia, hay trích lại của Trần Thanh Mại và Hoài Thanh – trừ vài bài tứ tuyệt không mấy quan trọng. Nhưng ông ấy may mắn có được đọc tập Gái Quê, xuất bản vào sinh thời tác giả. Lý do rất giản dị: chiến tranh đã làm thất lạc hết tài liệu, mặc dù Quách Tấn giữ gìn cẩn thận, sao nhiều bản gửi Bộ Giáo dục Nam triều thời đó và tất cả ban bè của Tử.
      Như vậy trong mọi hành trình vào tác phẩm của Hàn Mạc Tử, chúng ta sẽ giẫm chân tại chỗ, đua nhau kể cuộc đời ái tình và sự nghiệp của nhà thơ - dĩ nhiên là éo le gay cấn, nhưng không giúp hiểu thêm trước tác, sức sáng tạo thi ca, được bao nhiêu . Dù cho một vài bài quan trọng, như của Quách Tấn trên số báo Văn thượng dẫn, ngoài việc đưa ra một số sự kiện chung quanh việc sáng tạo của Hàn Mạc Tử còn bổ chính nhiều điều do Trần Thanh Mại đề xuất trong cuốn biên khảo về Hàn Mạc Tử  xưa nay vốn là tài liệu tham khảo căn bản cho mọi người.
     Về cuộc tranh tụng giữa hai họ Quách và Trần năm 1942, thì chúng tôi không có ý kiến gì. Nhưng xin tán đồng Quách Tấn về hai điểm: thứ nhất là Trần Thanh Mại ẩu, thứ hai là ông không hiểu thơ, và cứ ưa phê bình thơ, và Vũ Ngọc Phan cũng đồng ý như vậy. Tuy nhiên, nếu không có cái ẩu, cái trích dẫn bừa bãi của họ Trần, thì các nhà nghiên cứu về sau – kể cả Quách Tấn – lấy đâu ra thơ Hàn Mạc Tử để tham khảo, sau khi người giữ bản quyền để thất lạc hết di thảo ?
     Tưởng khi nói chuyện ba mươi năm về trước, Quách Tiên sinh không nên chua cay mới công bình.
     Chúng tôi trình bày những khó khăn về tài liệu đó là có ý rào đón những thiếu sót trong bài này, khi đề cập đến một đề tài hệ trọng và bao quát : đức tin Thiên Chúa giáo trong thơ Hàn Mạc Tử. Chúng tôi không khám phá ra điều gì mới mẻ, mà chỉ khai triển một nhận xét của  các ông Vũ Ngọc Phan, Hoài Thanh, cách đây mấy mươi năm. Chúng tôi chỉ đào sâu thêm tác phẩm để có một cái nhìn nhất quán trên toàn thể thi phẩm. Thay vì trích dẫn những câu có hình thức tôn giáo như Maria, linh hồn tôi ớn lạnh, thì chúng tôi mong chứng minh là cấu trúc toàn bộ của thơ Hàn Mạc Tử , phần nào, đã vang vọng lời truyền giảng của Phúc Âm.
     Bài này chia làm nhiều phần :
- Nhận định tổng quát
- Gái Quê : thế giới đợi chờ
- Đau Thương : con người sáng tạo và mơ ước
- Xuân như ý : Thế giới khải huyền.
     “Tôi đã sống mãnh liệt và đầy đủ. Sống bằng tim, bằng phổi, bằng máu, bằng lệ, bằng hồn. ..Thôi mời cô cứ vào... ánh sáng lạ trong thơ tôi..
      Đối với Hàn Mạc Tử thơ và đời sống là một, bất khả phân, nhất là khi lâm trọng bệnh. Nàng đánh tôi đau quá, tôi bật ra tiếng khóc, tiếng gào, tiếng rú (tr. 8). Tác phẩm của Hàn mang tên là Thơ Điên, sau đổi là Đau Thương vì nó là Đau Thương,  là “kinh nghiệm trước hết của một con người, một thực tại con người ngay trong thân phận”.
      Vũ Ngọc Phan nhận xét: “Có lẽ ông là người Việt Nam Nam ca ngợi Thánh nữ Đồng trinh Maria và Chúa Jésus bằng thơ trước nhất. Ông ca tụng đạo Gia-tô rất chân thành. Lần này cũng là lần đầu, thi ca Việt Nam thấy được một nguồn hứng mới”. Hoài Thanh nới rộng đến tương quan giữa tôn giáo và dân tộc, “Thơ Hàn Mạc Tử ra đời, điều ấy chứng tỏ đạo Thiên Chúa ở xứ này tạo ra cái không khí có thể kết tinh lại thành thơ. Tôi tin rằng chỉ những tình cảm có thể diễn ra thơ mới thiệt là những tình cảm đã thấm tận đáy hồn đoàn thể”. Nhận xét này của một kẻ “thiếu lòng tin, du khách bỡ ngỡ” là Hoài Thanh mang  ý nghĩa đặc biệt : trong Gia-tô giáo Việt Nam, niềm tin Thiên Chúa đã  nhập vào tín ngưỡng thuần túy Việt Nam. Và thơ Hàn Mạc Tử minh chứng  điều đó : một đức tin Việt Nam ở Thiên Chúa, diễn đạt bằng  lời ăn tiếng nói Việt Nam, mà ngôn ngữ  thi ca là thành phần tinh túy. Đó là điều  chúng tôi muốn trình bày qua một bài báo ngắn
        Duy chỉ khai triển thêm một ý của Hàn trong lời  tựa tập Đau Thương, viết năm 1938: Người đang say sưa đi trong Mơ uớc, trong Huyền diệu, trong Sáng láng và vượt hẳn ra người Hư linh...(tr. 7) trong đó người đọc gặp lại những chủ đề cương lĩnh của Kinh Thánh: một vũ trụ ngây thơ đổ vỡ vì nguyên tội; những khổ hạnh của thân xác như một kinh nghiệm của Mơ Ước và Huyền Diệu, để vươn tới một thế giới khác, sáng láng ngoài Hư linh, thế giới của Phục Sinh, của Khải Huyền. Ba giai đoạn đó là cơ cấu của nguồn thơ Hàn Mạc Tử.
Vũ trụ Gái Quê đã sụp đổ trong Đau Thương mà nhà thơ đã chịu đựng để đợi sống lại một mùa Xuân Như ý.
Ai nói vườn trăng là nói vườn mơ. Ai nói bến mộng là bến tình. Người thơ là khách lạ đi giữa nguồn trong trẻo. Trên đầu người là cao cả, vô biên và vô lượng; chung quanh người là mơn mớn với yêu đương...( Tựa Đau Thương)
       Những dòng mở thi phẩm không khỏi làm ta nhớ đến thiên Sáng Thế Ký mở đầu Cựu Ước. Nhưng vườn, đây không nằm ở hướng đông như vườn Eden (“Gen II.8”), mà chỉ là một vườn mơ, bến mộng, niềm nhớ nhung đằng đẵng về một hạnh phúc nguyên thủy. Hạnh phúc của nguồn trong trẻo mà loài người phải từ giã ra đi, và bị cấm cản đường về (“Gen III, 24”). Nguồn ở đây là dòng sông trước khi chia làm bốn nhánh, tưới vườn Eden bằng tình yêu cao cả, vô biên và vô lượng, chưa bị giới hạn vì nguyên tội, khi con người chưa khó nhọc, chưa đổ mồ hôi, chưa biết chông gai và mùi cát bụi (“Gen III 17, 18 và 19”). Bài tựa 1938 của Hàn Mạc Tử đã mơ ước khôi phục lại mùa xuân trinh nguyên của ngày sáng thế, đầy thinh sắc, tinh hoa và châu báu, như nhũ hương và bích ngọc bên bờ nhánh sông thứ nhất (“Gen II, 12”). Thơ Hàn, cũng như lòng lê thứ, nói như Pascal, là niềm hoài vọng bất lực về một hạnh phúc sơ khai, một tráng lệ đã phôi pha
Còn đâu tráng lệ những thời xanh
Mùi vị thơm tho một ái tình
Đố kiếm cho ra trong lớp bụi
Ít nhiều hơi hướm của kiên trinh
 
      Sau khi phạm trái cấm, loài người không mang nguyên tội ra khỏi địa đàng rồi dựng lại một bình an khác. Với tội kiêu căng, loài người phải chịu bao nhiêu hưng phế: từ Hồng Thủy cho đến cơn thịnh nộ của Thiên Chúa hủy tháp Babel, thành Sodome và Gomorrhe, bao nhiêu lớp bụi phế hưng đã lấp mất cánh đồng xanh lẫn “ ít nhiều hơi hám của kiên trinh”
Hồn xưa tự ấy không về nữa
Ở cõi hư vô dấu đã chìm
 
    Dân Do Thái, lưu linh còn hy vọng có ngày tìm về đất Hứa, còn con người đã vĩnh viễn đánh mất tất cả tráng lệ của thời xanh. Nhưng thơ Hàn Mạc Tử vẫn là mơ ước, một đón đợi, như Cựu Ước là sự chờ đón đấng Cứu Thế. Trong Gái Quê và những bài đầu Đau Thương, thơ là niềm mong đợi
Trước sân anh thơ thẩn
Đăm đăm trông nhạn về
 
    Ngày xuân mong đợi đó còn thuần lương, là một mùa xuân ngoại đạo – một thứ printemps paien- hồn nhiên và vô tư lự, như tất cả những hội hè của mùa xuân Việt Nam.
Trong làn nắng ửng khói mơ tan
Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng
Sột soạt gió trêu tà áo biếc
Trên giàn thiên lý – Bóng xuân sang

Sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời
Bao cô thôn nữ hát trên đồi
Ngày mai trong đám xuân xanh ấy
Có kẻ theo chồng bỏ cuộc chơi.
 
     Cái hồn hậu đó, như Hoài Thanh đã nói “chỉ là một mùa xuân đầu năm”, tôi nói thêm là một thế giới đợi chờ để nở lên một mùa xuân sáng thế “hồi trời đất mới dựng lên” hay mùa xuân tái tạo “ra đời một lần với chúa Jesus”.
      Khác biệt đó không có gì mâu thuẫn và Hoài Thanh cũng không cần ngại người đồng đạo với nhà thơ sẽ khó dễ vì một hai dấu tích Phật giáo còn sót lại. Quách Tấn còn cực đoan hơn: “Tôi nhận thấy vang bóng của đạo Phật có phần đậm hơn Thiên Chúa”. Sự phân lượng e rằng khó cân đo chính xác nhưng vết tích Phật giáo và ngay cả Lão giáo, Khổng giáo trong thơ Hàn Mạc Tử đậm đà, từ trong rung cảm đến ngôn ngữ. Điều đó không có gì là nghịch lý cả; hạt mầm Thiên Chúa giáo, khi nảy nở trên đất Việt Nam  thì tự nhiên  thích ứng với khí hậu, phong thổ. Gần đây, tình cờ tôi có đọc tác phẩm của linh mục người Pháp, Jacques Dournes nói về việc truyền giáo tại bộ lạc Jorai, Tây nguyên Trung Bộ. Sách có nhiều điểm tế nhị và sâu sắc, nhằm bảo vệ truyền thống một thị tộc: “Cơ quan hành chánh phát cho dân Jorai hạt giống bông vải gốc Phi châu, năng suất cao hơn giống địa phương; dân Jorai đã gieo hái, nhưng chỉ một lần thôi rồi không tiếp tục. Lý do là họ phải nhuộm chỉ trước khi dệt, và thuốc nhuộm làm bằng lá cây của họ không ăn vào chỉ bông nhập cảng. Họ lại trở lại với giống bông cũ. Từ  đó tôi không quên bài học bông vải”. Và khi viết bài này, tôi lại càng không dám quên  bài học quý hóa của một vị linh mục ngoại quốc, về sau đã có thêm nhiều đóng góp về hiểu biết các bộ tộc anh em ở Tây Nguyên.
      Theo Quách Tấn, gia đình Hàn Mạc Tử (dường như) theo đạoThiên Chúa từ đời nội tổ Tử, tên Phạm Bồi, vì liên can quốc sự nên dời quê, được một linh mục Pháp đỡ đầu, vào lập nghiệp tại Thừa Thiên. Thân sinh Hàn Mạc Tử là Nguyễn Văn Toản đổi sang họ Nguyễn ; học Đại Chủng viện Huế, đến chức Thầy Tư rồi bỏ ra đời làm công chức ngạch thương chính. Ông sinh hạ được sáu người con và đặt tên là Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín. Hiếu.  Dài dòng như vậy là để trình bày không khí và giáo dục gia đình nhà thơ, thấm nhuần nho giáo, một mảnh đất mới đang hấp thụ đức tin Ki Tô giáo, đang dần dần thấm nhuần ơn trìu mến.
Tôi là trăng cổ độ
Lượng trời rộng bao la
  
    Phải, lòng chàng là bến đợi. Trong những kích thước mông mênh; có thể là một trời thu man mác; có thể là hàng cau nắng mới lên; thường thường là một đêm trăng sao đắm đuối. Vâng, như đón từ xa. Như đợi từ xa:
Cho ta nhận thấy không đền đáp
Ơn trọng thiêng liêng xuống bởi trời.
 
     Nhưng chàng đã đền đáp. Bằng tất cả. Đau thương: tiếng Thơ và cuộc Sống. Chàng đã đem  cuộc đời để trả lời ơn phước cả đang ngân vang trong màu nhiệm phủ ban đêm, một tiếng gọi của thượng tầng không khí. Từ lúc nhận điềm có tiên tri thì vũ trụ trong Gái Quê và nhũng bài Đau Thương đầu tiên nhuốm ý thức nguyên tội, người lương sẽ gọi là mặc cảm tội lỗi. Những bài đó gợi cảm giác có  tội trước khi phạm lỗi. Vũ Ngọc Phan và Hoài Thanh  đồng ý rằng tập Gái Quê thiên về dục tính; có lẽ ta cần minh định thêm về khuynh hướng ấy. Một người chỉ xin hoa đền ngự và lòng ni cô thì dục tính... đi tới đâu? Tôi xin giải thích thêm về điểm này:
Mới lớn lên trăng đã thẹn thò
Thơm như tình ái của ni cô 
       Tại sao trăng lại phải thẹn thò? Thẹn thò là cảm giác của Adam và Eva khi lấy lá che thân lánh mặt Đức Chúa Trời (“Gen III, 7-8”) sau khi ăn trái cấm. Họ thẹn thò vì phạm lỗi. Còn Trăng việc gì mà phải thẹn thò nhất là khi mới lớn lên? Sự thẹn thò của thân thể, con người đã thừa kế của Adam, cho nên ta mới  có thể nói : không khí rạo rực trong Gái Quê là di sản của nguyên tội. Những câu thơ mà Vũ Ngọc Phan cho là “ gợi tình, thiên về xác thịt” là một dục vọng, nhưng đồng thời cũng là một cấm đoán, một lãnh cảm:
Da thịt trời ơi trắng rợn mình.  
   Hàn Mạc Tử nhắc đến tình ái của ni cô, hay da thịt của nàng dâu để gợi lên cái vô tội của con người trong một thế giới đã hư hỏng vì nguyên tội, mà mình phải gánh chịu. Ngay trong giáo lý, dục tính, tự nó, không phải là tội lỗi: “Đó là một căn bệnh, chứ không phải tội lỗi. Tuy nhiên căn bệnh đó là hình phạt của tội lỗi” tác giả muốn nói đó là nguyên tội; và “ dục tính, bản năng sinh lý như ta thường thấy là tiếng gào phản kháng của một hình hài bị thương tổn”.
      Nhà thơ dự phóng những rạo rực của bản năng ra ngoài vũ trụ; cái nhìn của chàng vuốt ve, mơn trớn với yêu thương, tất cả tạo vât. Từ ánh trăng, đến cành liễu, mặt hồ, cơn gió, cho đến bài thơ của người yêu, tất cả đều  nồng nàn da thịt, tất cả đều tương giao trong nguồn ái ân ràng rịt trăm giây quyến luyến:
Trăng nằm sóng soải trên cành liễu
Đợi gió đông về để lả lơi
Cây lá ngây tình không muốn động
Lòng em hồi hộp, chị Hằng ơi
 
      Dục tính trong đoạn thơ nằm trước hết trong cách chọn chữ gợi tình, khi đi đôi  với nhau như trăng và gió, trong thành ngữ phong nguyệt hay gió giăng. Hoặc trăng và hoa, hoặc liễu và hoa; trong những hình ảnh nguyệt hoa hay ghẹo nguyệt trêu hoa, hay liễu ngõ hoa tường. Hay hình ảnh “nguyệt hoa hoa nguyệt trùng trùng” trong thơ xưa.
      Đoạn thơ lại khêu gợi bằng những hình ảnh táo bạo đến suồng sã như nằm sóng soải, lả lơi, ngây tình; cuối cùng cơn mê đắm còn biểu lộ trong những ý tưởng lộ liễu. Tất cả những chữ,  hình ảnh,  ẩn dụ, những ý tưởng đó giao thoa thành một không khí lả lơi, vừa cợt nhả vừa tinh tế, tuy có suồng sã nhưng không phải là không khéo léo. Thơ gợi dục tính của Hàn Mạc Tử, cùng với thơ Bích Khê, bạn thân của Hàn, dường như là môn đệ, có lẽ táo bạo bậc nhất trong thi ca mới; cái tài tình của Hàn, khác với Bích Khê, là táo bạo đến đâu vẫn còn nét ý nhị.
    Một cử chỉ, câu nói sống sượng khi tự nó, nó nói hết những điều muốn nói, và đôi khi còn nói luôn những điều không nói. Ở Hàn Mạc Tử – ít ra ở những bài còn lưu truyền đến ngày nay – dù hở hang đến đâu, vẫn còn úp mở của một ngôn ngữ ý nhị và tình tứ. Chúng ta không còn những bài thơ như Hát Giã Gạo trong tập Gái Quê đã làm cho Vũ Ngọc Phan “ lợm giọng”, nhưng dù muốn hay không, ta phải công nhận nhà thơ có một quan niệm luyến ái thánh thiện, lành mạnh đến bệnh hoạn:
Cho nên tôi tưởng tối tân hôn
Chưa tới, còn xa để được buồn
Để sống trong niềm thương nhớ đã
Để còn mường tượng đến giai nhân 
      Đọc Hàn Mạc Tử ta có cảm giác một sự giằng co giữa con người phóng túng và con người khắc khổ? Cái giọng tình của Hàn, dù có cợt nhã, cũng chỉ tả một thứ tình hàm thụ, lối ái ân không tưởng, trong môi giới giữa nhân sinh và tạo vật. Nói gọn hơn, nó không thể thỏa mãn, trong một thế giới không tự mãn.
     Vì vẫn còn là một thế giới đợi chờ Điềm Lạ, trong lòng vũ trụ còn say chìm nơi bất giác, nhưng đã được các tiên tri chuẩn bị để đóng mừng Ngôi Hai.
     Hàn Mạc Tử mô tả thế giới đợi chờ, trước hết bằng di sản hồn nhiên của một nền văn hóa ngoại đạo nhưng niềm nở và hướng thượng, thứ đến bằng đức tin nuôi dưỡng trong Phúc Âm; hai phụ lưu sung mãn đó đã đổ vào hồn thơ Hàn Mạc Tử, như một dòng sông vừa nhận được cơn nước nguồn thác lũ bỗng phải vượt qua một địa thế hiểm nghèo: chứng phong nan y đã biến hồn thơ hồn hậu  thành một cuồng lưu khốc liệt, nếu không phải là một vùng nước xoáy.
     Đau thương. Tên một tập thơ, và tên một định mệnh. Hay tiếng gầm rú của một cuồng lưu lâm vào tuyệt địa. Chúng ta nói qua sự đau thương trong cuộc đời. Rồi trong thơ.
     Hàn Mạc Tử nhuốm bệnh từ năm 1936. Hăm bốn tuổi, tuổi anh hoa đang phát tiết “Khi biết mình đang mang bệnh hiểm nghèo, Tử hết sức đau đớn, đau đớn đến phát điên. Thường ngày trong cơn thác loạn nổi dậy, khi nhiều khi ít. Nhưng ngày rồi ngày, nỗi đau khổ hết phát hiện ra ngoài một cách bồng bột, thì lại ăn sâu vào tâm hồn ngấm ngầm nung nấu nạn nhân, nung nấu đến tột độ”. Hàn Mạc Tử nhiều lần mô tả những đau đớn của thân xác:
Thịt da tôi sượng sần và tê điếng.
Tôi đau vì rùng rợn đến vô biên
 
    Bên cạnh những hành hạ của bệnh trạng, Hàn Mạc Tử còn phải đương đầu với hai hậu quả khác của hoàn cảnh: nghèo túng và tuyệt vọng vì tình. “Hiện Trí về tạm ở nhà. Cái nguyên nhân là không tiền uống thuốc. Bữa nay Trí xuống nhà bà thầy thuốc rồi. Có một mái nắng rọi nhiều quá. Cả chiều nếu ở trong nhà thì phải đội mũ”. Chúng ta còn có nhiều tài liệu khác về nỗi cùng khốn của nhà thơ qua những bức thư gửi Trần Thanh Địch, do Trần thanh Mại trích dẫn.
     Về cuộc tình duyên đau khổ với Mộng Cầm, chúng ta cũng có nhiều tài liệu. Đại khái hai bên yêu nhau khăng khít, thề bồi dữ dội lắm, hẹn hò nhau từ Phan Thiết ra đến Qui Nhơn; khi Hàn Mặc Tử chịu tang cho anh, thì Mộng Cầm tự xin phép được “thành tâm cư tang cho ông anh một năm cũng như anh, nghe anh” vì “ người cầm bút biên mấy hàng trên đây là người em dâu chắc chắn, nhất định của anh rồi. Vậy ông anh nên phù hộ cho chúng em thương nhau cho đến bạc đầu”. Khi biết chàng lâm trọng bệnh, thì nàng “thề” bồi lại một lần nữa đậm đà hơn”, để rồi sáu tháng sau nàng đi lấy chồng. Trần Thanh Mại cho rằng nàng không đáng trách, “duy có cái nàng lấy chồng hơi gấp đấy thôi”. Quách Tấn cũng cho biết là thái độ của Mộng Cầm đã gây ra cho nhà thơ “ một nỗi buồn thương vô hạn”, “một phản ứng mãnh liệt”, những tiếng kêu rên thống thiết”.
Nghệ hỡi Nghệ muôn năm sầu thảm,
Nhớ thương còn một nắm xương thôi,
Thân tàn ma dại đi rồi,
Rầu rầu nước mắt, bời bời  ruột gan.
 ( Mộng Cầm tên thật là Huỳnh Thị Nghệ)
Trời hỡi nhờ ai cho khỏi đói?
Gió trăng có sẵn làm sao ăn?
Làm sao giết được người trong mộng
Để trả thù duyên kiếp phụ phàng?
 
             Trần Thanh Mại, tr 95
     Tiếng kêu trầm thống đó chất chứa cả kiếp cùng khốn vật chất lẫn tinh thần, cho đến ngày bị bệnh tàn phá đến thảm thê, theo như một người bạn, cùng bị hủi, kể lại “hai mắt nằm lọt vào sâu hai lỗ hũm sâu hóm, đến không còn mở ra được. Thân hình chỉ còn da bọc lấy xương, chân tay thì co rúm lại, mà đầu tóc thì bù xù rối trết lại từng về, trong ấy nhô nhúc những chí là chí” (thư của ông Nguyễn Văn Xê, để lại Qui Hòa ngày 25-6-1941). Chúng ta tưởng không có gì thê thảm hơn tình trạng băng hoại đó. Ấy thế mà Hàn Mạc Tử can đảm chịu đựng nữa là đằng khác: “tuy hơi cực khổ thế mà tôi vẫn an vui, ngày nào cũng có cười cả. Nếu không cười với ai, thì cười một mình, xem ra thú vị không biết mấy”. Một tự tình chua xót.
     Niềm an vui kia, Trần Thanh Mại, người biết cuộc đời thật của nhà thơ cho là “yêu quái” là “kinh dị”. Còn Vũ Ngọc Phan chỉ biết Hàn Mặc Tử qua một số thi phẩm cũng không khỏi ngạc nhiên: “một người mang bệnh rất đau đớn mà có một tâm thần thư thái, bình tĩnh như thế, thật cũng lạ”. An vui của Hàn Mặc Tử không phải là cay đắng, gượng gạo, có khi nổ tung ra trong những câu thơ hơn hớn:
Hôm nay vui quá anh Phùng ơi
Buồn xa không đến lệ không rơi
Buồn không thắt ruột, tình không lại
Cười nói làm sao cho hả hơi?
 
(Trần Thanh Mại trích, tr 122)
      Biết đâu là Đau thương giam cầm không kỹ, thoát lọt ra trong một biến trạng dị kỳ. Họ Trần cho là “quái gở, thật đáng rùng mình ”. Sở dĩ ông không hiểu can đảm của bệnh nhân, có thể là ông không hiểu được sức mạnh của đức tin trong con người Hàn Mạc Tử. Khi đề cập đến vấn đề này, Hoài Thanh, cũng là người ngoại đạo, nhưng tinh tường hơn Trần Thanh Mại, thừa nhận ngay “Thiếu lòng tin tôi chỉ là du khách bỡ ngỡ” còn họ Trần thì cứ phán đoán ầm ĩ cả lên. Nhưng nhờ có ông mà chúng ta có được một dữ kiện về đời sống tín ngưỡng của nhà thơ: “ Trong khi sưu tầm tài liệu của nhà thi sĩ, tôi tìm thấy trong một nhà trọ của chàng, một mẩu báo dán trên khung cửa sổ tre, đã nhàu nát vàng vọt, và nhìn lối in chữ và hình ảnh tôi biết ngay là báo Vì Chúa. Đoạn bài đăng trên mẩu báo ấy nói về nguồn an ủi trong bệnh tật cho rằng sự đau ốm là do đức Chúa Trời ban xuống cho ta, để thử lòng ta, nên chẳng  những là ta phải chịu một cách nhẫn nhịn mà còn nên vui vẻ bằng lòng nữa”.
      Căn cứ trên đoạn này tôi cho rằng tác giả không mấy thông thạo giáo lý Gia- tô giáo. Nếu bài báo ấy có thật – Vì họ Trần mãi cho đến ngày nay ở Hà Nội vẫn có cái cố tật là ưa bịa đặt tài liệu.- thì chúng ta tiếc rằng họ Trần không trích dẫn chính xác, cho biết rõ xuất xứ, tìm xem báo Vì Chúa số mấy, ngày mấy, hoặc ít nhất cũng cho ta nguyên văn. Vì theo kiến thức thô thiển của tôi, thì không có kinh sách nào dạy rằng “đau ốm là do Chúa Trời ban ” và chúng ta phải “vui vẻ bằng lòng”.
      Nhưng vấn đề ở đây không phải cãi nhau về giáo lý, vừa ngoài phạm vi bài viết và thẩm quyền của tôi. Điều quan trọng là, Trần Thanh Mại đã nói, đức tin “ đã ảnh hưởng tốt đẹp đối với chàng”. Quách Tấn xác nhận điều này: “Tử tìm được nguồn an ủi lớn nhất trong nguồn Đạo. Khi đã sống cùng Đạo thì tâm hồn Tử hết bị ray rứt dày vò”.
      Chính nhà thơ đã kể lại một ngày bệnh tật của mình: “Lại đọc kinh, lại ngâm thơ, lại làm thơ, lại nhớ, lại nằm. Buổi tối ăn xong, cũng vừa đi bách bộ vừa ngâm thơ một cách sung sướng nhất đời. Cả ngày chỉ ngâm thơ và đọc kinh là nhiều hơn cả. Ngày nào cũng như ngày ấy, không thấy buồn lắm, và ngày nào cũng mong mỏi một cái gì”.
      Đối với Hàn Mặc Tử, Thơ là Đạo và Đạo là Thơ, Thơ đã đạt tới Đạo và Đạo để đi tới Thơ, hoặc như Hoài Thanh đã nhận xét chí lí “Thơ chẳng những ca tụng Thượng Đế mà cũng để nối liền người ta với Thượng Đế”.( Sau này có chuyên gia thần học đã lưu ý : danh xưng Thượng Đế không phù hợp với giáo lý Ki Tô giáo, mà là danh xưng thường gặp trong Lão giáo, mặc dù Hàn có câu “ giàu sang hơn Thượng Đế.”)
      Thơ đưa về Đạo, là nẻo đường đưa đến Con Đường. Thơ là giải pháp tạm thời của Đau Thương, trong khi chờ đợi Đạo và Cứu Rỗi miên viễn. Ngày nào cũng mong mỏi một cái gì. Nếu Gái Quê, như tôi đã trình bày ở đoạn trên, là thế giới đợi chờ Điềm Lạ, đợi chờ Chúa Ra đời thì Đau Thương là một tâm hồn mong mỏi Ngày Chúa trở lại (“Mt” 24-22) Hàn Mặc Tử chấp nhận bệnh tật không phải là vì “do đức Chúa ban xuống” như Trần Thanh Mại đã nói; nhưng trước hết vì nó là hậu quả  của nguyên tội và thứ đến vì nó là phương tiện thân xác mà Chúa đã dùng để cứu thế. Linh mục Charles Journet, giáo sư Đại Chủng Viện Fribourg đã trình bày vấn đề một cách mạch lạc và nhất quán trong tác phẩm về thống khổ: “Chúng ta xem khổ ải của thân xác như một mãnh lực hợp - cứu- thế vì chúng ta dự vào đau đớn của Chúa Ki tô và trong sự tham dự của chúng ta. Như vậy không nên nói đến chấp nhận Đau Thương  mà chỉ nên nói đến gia nhập vào công đức cứu rỗi; chúng ta không chấp nhận (accepter) vì nó là một định luật của thể xác; chúng ta thu nhận (adopter) vì nó nối liền bản thân Thiên – Chúa – hiện – làm – người.
      Đoạn trên rọi sáng lời truyền dạy của sứ đồ Saint Paul trong thư gởi cho người La-Mã: “Những khổ hiện tại không có nghĩa lý gì so với những vinh hiển phải được thể hiện trong mỗi chúng ta. Mỗi hình hài chờ đợi là một khát vọng sự thể hiện con cái đức Chúa Trời, với Mơ Ước được giải thoát ra khỏi hư nát, và đạt tới tự do vinh hiển của con cái đức Chúa Trời. Vì chúng ta biết rằng hình hài, đến nay vẫn rên xiết trong công trình thai nghén” (“Rom”, VIII, 18-32). Đau Thương hôm nay là thai nghén cho ngày mai, thai nghén một mùa Xuân như ý, Người Ki Tô giáo quan niệm đau thương như một huyền nhiệm, nhưng hữu hạn, trước Chúa Trời là một huyền nhiệm, vô hạn.
      Tôi thành thật nghĩ rằng Hàn Mạc Tử đã bình an được trong Đau Thương – một hoàn cảnh thể xác, vật chất và tinh thần làm chúng ta rùng mình - là nhờ huyền nhiệm đó, nhờ sức mạnh của xác tín. Có lẽ xác tín đó, cộng với bệnh trạng, đã tạo một linh thị cho nhà thơ. Trần Thanh Mại và Quách Tấn đồng ý “ là mỗi lần chàng chết đi sống lại (trong mấy năm bệnh chàng bị chết đi sống lại bốn đến bốn năm lần) và chàng đều cảm thấy có bà Thánh Nữ Đồng Trinh Maria đến cứu”. Theo Quách Tấn thì bài thơ trứ danh “Maria! Linh hồn tôi ớn lạnh” được viết khi Tử sống lại, trong cảnh đó.
      Dù cho rằng mộng mị chỉ là một biến thể của bệnh trạng, thì dưới ánh sáng của khoa phân tâm, ta có thể đi đến cội rễ của mộng mị, dù xa lạ đến đâu. Cội rễ ở đây, là xác tín trong tâm hồn Hàn Mạc Tử, người đã cam chịu hư nát để chuẩn bị cho một vinh hiển. Thật ra, niềm tin vào cuộc sinh tồn mai hậu, của linh hồn, ở một thế giới khác, không phải đặc biệt của Thiên Chúa giáo. Trong hầu hết các tín ngưỡng tự nhiên của dân gian, nước nào cũng vậy, đều có mầm hy vọng của một đời sống khác. Chỉ nói đến vòng đai tôn giáo chung quanh địa lý Thiên Chúa giáo, chúng ta có thể kể đến tư tưởng Assyrien, Babylonien, và nhất là Ai - Cập, đều có niềm tin đó, như muốn: ra không gian và vượt hẳn thượng tầng. Đức tin của Hàn Mạc Tử không phải ở chỗ mong hồn tới tấp ở ngoài kia vũ trụ, mà ở chỗ tìm gặp Một Người ở cõi quá thinh gian; Hàn Mạc Tử  tìm tới chốn chiêm bao ngoài sự thực, không phải vì chiêm bao đẹp hơn sự thực và “ứ đầy khoái lạc”. Mà chỉ :
Vì có đấng hằng Sống, hằng Ngự Trị
Nhạc thiêng liêng dồn trổi khắp hư linh
 
     Bài “Ngoài vũ trụ”, mà tôi đã trích các câu trên, tiếp theo hai bài “Hồn lìa khỏi xác” và “Siêu thoát” soi sáng ý nghĩa của những bài Đau Thương và báo hiệu cho Quần Tiên Hội, Cẩm Châu Duyên và Xuân Như ý.
     Vậy ta có thể đề cập đến một kiến trúc trong thi phẩm của Hàn Mặc Tử không? Chúng ta biết rằng sự sắp xếp thứ lớp trong  tuyển tập Thơ Hàn Mạc Tử, 1942 hay 1959, không phải do thi sĩ, mà những người phụ trách tái bản thơ ông, tức là Quách Tấn hay Hoàng Trọng Miên gì đó. Do đó,  không ai dám dựa trên trật tự cụ thể của tập thơ để nói đến kiến trúc, như Marcel Ruff đã nói về “ kiến trúc bí mật, architecture secrète” khi trình bày nhất quán thi phẩm  Hoa tội lỗi, Les Fleurs du Mal của Baudelaire. Tôi vẫn theo lối sắp xếp trong ấn bản Tân Việt, 1959, vì nói chung nó phản ánh thứ tự biên niên trong quá trình sáng tác; tôi nghĩ  không ai bác bỏ thuyết cho rằng Gái Quê sáng tác trước Đau Thương, Xuân Như Ý; và Cẩm Châu Duyên, Duyên Kỳ Ngộ sáng tác sau cùng, thời kỳ nhà thơ biết Thương Thương. Nhưng dù sao chúng tôi cũng dè dặt mong các nhà biên khảo sau này có nhiều sử liệu chính xác hơn tôi, sẽ đào sâu cơ cấu mạch lạc của vũ trụ Hàn Mạc Tử, trên bình diện này hay bình diện khác, hoặc trong nguồn sáng tạo toàn diện thì càng nghiêm túc.
                                                (Còn nữa)
                         _________________________

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét