Làng Kế Môn |
(Dụng Đỗ Lăng Thu hứng bát thủ chi vận)
NỖI NHỚ MÙA THU THỨ HAI của Nguyễn Lộ Trạch
Bài thơ này ghi lại hồi ức về thuở còn thanh niên của nhà thơ lúc ở kinh đô Huế. Một buổi chiều tà, nhà thơ dừng ngựa ở chân núi Ngự Bình, ông bỗng nhớ về thuở còn thanh xuân. Đất nước lúc ấy đang thật sự chìm nổi hủy hoại. Non sông hết tan rồi hợp khác nào chiếc bè trôi nổi vô định giữa bể khơi. Giặc đang tung hoành nơi kinh đô. Lòng ông đau như cắt. Nhìn hoa hải đường ở thượng uyển mà ngỡ hoa đỗ quyên gợi tiếng kêu thương mất nước.
Phiên âm:
Bình sơn lập mã nhật tà tà,
Liệu vọng đương niên ức tuế hoa.
Đại địa tiêu trầm hoàn hạo kiếp,
Cửu châu li hợp tận phù tra.
Thanh phần Hán khuyết hà nhân kiếm,
Minh nguyệt Hồ thiên kỉ xứ già.
Thượng uyển thu đường hồng lịch
lịch,
Nhất thời hóa tác đỗ quyên hoa.
Dịch
nghĩa:
Trời xế bóng ghìm ngựa trên núi Ngự Bình,
Nhìn lại năm ấy nhớ thờ tuổi trẻ.
Đất nước tiêu chìm đến thời hủy hoại,
Non sông tan hợp như chiếc bè trôi.
Khí độc bốc lên nơi cửa Hán là do kiếm của ai,
Trăng sáng trời Hồ tiếng kèn nổi lên những nơi nào?
Trong vườn thượng uyển, hoa thu hải đường đang đỏ rực rỡ,
Thoạt nhìn cứ ngỡ ấy chính là hoa đỗ quyên.
Dịch thơ
Ngựa dừng núi Ngự bóng ngày tà,
Nhớ
lại năm xưa đương tuổi hoa.
Đất
nước đắm chìm tai họa lớn,
Núi
sông trôi nổi mảng bè xa.
Gươm tuôn khí độc nơi song Hán,
Kèn vọng trăng soi giữa đất Hồ.
Đỏ rực hải đường thu thượng uyển,
Nhác
trông cứ ngỡ đỗ quyên hoa.
(Hoàng Dục)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét