Trong
cuộc đời hay trong văn học cũng thế, người cô đơn là những người đi trước lúc mặt
trời mọc hay đi ngược gió. Không cô đơn sao được khi mọi người an giấc với những
gì họ có thì anh lại cất bước lên đường với
tư tưởng đánh thức bình minh. Không một mình sao được, khi ai cũng thuận
theo chiều gió quan niệm, anh lại ngược sắm vai người phản biện. Với Phùng Quán
cũng vậy. Nhà thơ không chấp nhận “cuốn theo chiều gió” hay “để gió cuốn đi” mà
quay người lại đối diện rồi rẽ gió mà bước. Hành động rẽ gió mà bước của ông
không chỉ có trong đời thực mà có cả trong văn chương. Một trong những bài thơ
tiêu biểu cho hành động đó là bài thơ HOA SEN.
Bài thơ mở đầu bằng bài ca dao quen
thuộc:
“Trong
đầm gì đẹp bằng sen
Lá
xanh bông trắng lại chen nhị vàng
Nhị
vàng bông trắng lá xanh
Gần
bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”
Mượn tác
phẩm văn chương dân gian quen thuộc không phải để hòa điệu, hòa thanh, để thơ
có tính dân tộc mà chỉ lấy làm điểm tựa cho tứ thơ của mình sinh sôi nẩy nở. Mượn cũng chỉ để
tạo cách lập ý đối lập giữa tiếp nhận tập thể, có tính chất truyền thống với
quan niệm của một cá nhân về mối quan hệ nhân quả giữa con người với môi trường
sống, giữa cá nhân với cộng đồng.
Hãy nghe Phùng Quán tỏ bày:
Mặc cho câu ca được cả nước lưu truyền
Và đời vẫn tin là ca ngợi phẩm chất
của sen
Nhưng tôi không thể nào tin được
Câu ca này gốc gác tự nhân dân
Bởi câu ca sặc mùi phản trắc
Của những phường bội nghĩa vong ân!
Đây là những
câu thơ biểu lộ cái nhìn khác, cách tiếp nhận khác trái chiều với truyền thống
về nội dung tư tưởng của bài ca dao. Câu ca dao “được cả nước lưu truyền” và
“đời vẫn tin là ca ngợi phẩm chất của sen”. Xưa nay ai cũng hiểu chủ đề tư
tưởng bài thơ như thế. Hoa sen sống gần bùn mà không tanh mùi bùn. Ngược lại,
hoa vẫn mang sắc màu sáng trong, vẫn tỏa hương dịu dàng thanh khiết. Hoa ví như
người quân tử, sống giữa đời ô trọc, nhớp nháp vẫn giữ phẩm cách thanh cao, khí tiết cứng cỏi.
Hoa giống như những người biết sống đúng đạo lý làm người: không quỳ gối cúi
đầu trước sức mạnh quyền bính, không mê hoặc bởi giàu sang, không thay đổi vì
nghèo khó.
Nhà thơ có
“tuổi thơ dữ dội” lại khác. Ông tin bài thơ không do nhân dân sáng tác. Bởi bài
ca dao toát lên mùi phản trắc “của những phường bội nghĩa vong ân”, đây là sản
phẩm của những kẻ vong tình, những kẻ giả hình trong cuộc sống. Nhà thơ như
người “điều tra” cái án từ ngữ, phát hiện ra chữ “tội phạm” là từ “GẦN” ở câu
cuối bài ca dân gian:
Tất
cả là trong cái chữ “gần”
Chỉ một chữ
mà ta thắt gan thấu ruột
Những manh
tâm bội nghĩa vong ân.
Chữ “gần”
sao lại là tội phạm. Không tội phạm ư? Thì đây. Hãy nhìn vào hiện thực đời sống
của sen. Sen sống trong bùn chứ không phải gần bùn, Bùn với sen có quan hệ biện
chứng với nhau. Bùn là gốc gác, nguồn sống của sen đúng như nhà thơ viết:
Bùn với sen đâu phải chuyện gần
Chính là sen mọc lên từ đó
Gốc của sen là thăm thẳm bùn đen
Nhị vàng, bông trắng, lá xanh…
Tất cả, tất cả, tất cả!...
Là do bùn hôi nuôi dưỡng
Ngay cả hương thanh khiết ta đặt lên
bàn thờ cúng
Cũng là xương thịt của bùn tanh.
Từ “gần” như
thế là tội phạm, nếu không cũng là đồng lõa với sen, kẻ vong ân bội nghĩa với
bùn. Từ “gần” đã giúp sen từ chối gốc gác một cách hợp pháp. Đúng hơn từ “gần”
đã định hướng cái nhìn của mọi người về sen quá tinh vi. Từ “gần” khéo che góc
khuất tâm hồn, phẩm cách của sen để người đọc chỉ thấy sự thanh cao của thảo
mộc này. Như thế, từ “gần” chỉ là từ chiêu tuyết cho hoa sen mà thôi.
“Điều luật”
mà thơ làm cơ sở buộc tội từ “gần” là vai trò, vị trí lớn lao của nhân dân đối
với dân tộc và văn hóa, cụ thể hơn là mối quan hệ giữa cá nhân với cộng đồng,
con người với nhân dân, với dân tộc. Trong quan niệm của Phùng Quán, bùn là một
ẩn dụ nghệ thuật tượng trưng cho nhân dân; sen là một cá thể sống trong nhân dân.
Chính nhân dân chứ không ai khác đã sản sinh những anh hùng, những người tài:
Như nhân dân
Gian truân, thầm lặng, vô danh
Đã sinh ra vỹ nhân, anh hùng, nghệ sỹ…
Không có
nhân dân không có đất nước, không có văn hóa,… cũng như không có bùn hẳn không
có sen. Vậy mà sen không hiểu chân lý
này. Vậy mà có người không nhìn thấy sự thật này. Ngược lại còn phủi ơn như
phủi tay.
Những kẻ
vong ân bội nghĩa với nhân dân, dân tộc ấy là ai? Đó là:
Vốn con cái của giai cấp cùng khổ
Chúng chòi lên cuộc đời quyền lực giàu
sang
Nghĩ đến cha mẹ chúng xấu hổ
Chúng mưu toan giấu che từ bỏ
Nói xa gần chúng mượn chuyện sen
Cũng may những
kẻ sống trong lòng nhân dân mà bảo sống “gần” ấy không nhiều. Sống giữa nhân
dân, thừa hưởng rất nhiều giá trị vậy mà những kẻ ấy lẹo lưỡi bảo rằng
không thụ hưởng gì chỉ là thiểu số. Ít
vì chỉ là “chúng”, “con cái của giai cấp cùng khổ” vừa “chòi lên cuộc đời quyền
lực vàng son”. Mới “chòi lên” nên chỉ biết mùi tiền và màu tiền. Mới “chòi lên”
nên phá nát đạo lý làm người và văn hóa dân tộc. Mới “chòi lên” nên hãnh tiến
bội ơn: Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn.
Ví thế, người đọc hiểu tại sao Phùng quán nổi giận gằn giọng khiến những câu thơ
kết săn chắc lại chối bỏ câu ca dao, chối bỏ chữ “gần:
Nhân danh bùn
Nhân danh sen
Tôi đề nghị:
Đuổi câu phản trắc này khỏi kho báu dân
gian!
Có người đọc
bài thơ Hoa sen rồi bảo rằng, Phùng
Quán cực đoan, vơ đũa cả nắm. Không hiểu nhưng người ấy đã đọc bài thơ như thế
nào? Nhà thơ đâu đòi đuổi cà bài, ông chỉ đuổi một câu ca dao. Mà nếu có thì
nhà thơ chỉ muốn đuổi từ “gần”, bắt tội từ ấy vì nó làm hỏng cả bài thơ dân
gian.
Vấn đề là,
liệu chữ “gần” nói riêng và chữ nghĩa nói chung thật sự có tội không? Hay cái
tội ấy do người dùng đổ vạ lên đầu chúng!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét