Thứ Bảy, 25 tháng 4, 2020

616. THU HOÀI BÁT THỦ

Làng Kế Môn

         THU HOÀI BÁT THỦ
 (Dụng Đỗ Lăng Thu hứng bát thủ chi vận)
         NỖI NHỚ MÙA THU SỐ 4
                               Nguyễn Lộ Trạch 
        Bài thơ là tấc lòng đau của tác giả trước thế nước. Thực dân Pháp xâm lược. Triều đình chỉ có sách kế nghị hòa là quốc kế cơ bản. Người hiền tài tâu trình đường lối canh tân tự trị thì vua gạt phăng đi. Thế nước đã rơi vào thế cờ tàn không thể cứu vãn nổi.   
      
           Phiên âm:

Phân phân thế cố thuộc tàn kì,
Thái tức hề kham Giả Phó bi.
Khảng khái Tuy Dương văn địch dạ,
Cùng sầu Đỗ Lão bế môn thì.
Thập niên hồ hải ngư long biến,
Vạn tính sang di chẩm tịch trì.
Độc thị trăn linh dao lạc hậu,
Nhất thiên phong vũ dục thùy ti (tư).

Dịch nghĩa:

Việc đời rối bời giống như cuộc cờ tàn,
Thở than sao chịu nổi nỗi đau buồn của Giả Phó.
Đêm nghe tiếng sáo khẳng khái kẻ giữ thành Tuy Dương,
Lúc khép chặt cửa buồn rầu khôn xiết lòng Đỗ Lão.
Mười năm hồ hải, rồng cá khắp nơi,
Trăm học đau thương, nghỉ ngơi muộn.
Chỉ riêng lúc cây trăn, linh đã rơi rụng hết,
Một trời gió mưa, còn muốn tưởng nhớ ai


Dịch thơ:

Rối bời thế nước cuộc cờ tàn,
Giả Phó sầu đau cứ thở than.
Khí khái Tuy Dương đêm sáo vút,
Muộn sầu Lão Đỗ ngày cài then.
Mười năm sông biển cá rồng khắp,
Trăm họ tang thương ai nghỉ an.
Cây lá trăn linh tàn rụng hết,
Phương nào ai đó gió mưa chan.


                   (Hoàng Dục dịch)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét