Dưới đây là bài viết của Bùi Giáng về nhà thơ Quang Dũng. Bài viết này do N2 gửi tặng, mình đăng lên để các bạn thưởng thức.
Cám ơn N2 rất nhiều.
Cám ơn N2 rất nhiều.
Thơ Quang Dũng
Bùi Giáng
Mai chị về em gửi gì không
Mai chị về nhớ má em hồng
Mai chị về nhớ má em hồng
Quang Dũng (1921-1988)
________________________________________
Chỉ hai câu mở đầu đã khiến người tê lạnh. Không có gì cả, không lời nào tha thiết, nhưng đúng như ông Huy Trâm nói: “Thơ
Quang Dũng ý đã nhiệt thành, cao đẹp, mà lời thơ lại êm ái gợi cảm vô
cùng. Nói về thơ nhẹ nhàng, êm dịu, mà đọc tới đâu lâng lâng tưởng chết
cả lòng đến đấy, thì thi ca hiện đại chỉ có Quang Dũng.”
Thi ca hiện đại hay thi ca ngàn đời, thi ca Việt Nam hay thi ca thế giới – vâng – cũng chỉ riêng một Quang Dũng thôi.
Mai chị về em gửi gì không
Mai chị về nhớ má em hồng
Đường đi không gió lòng sao lạnh
Bụi vướng ngang đầu mong nhớ mongĐó là chỗ sơn cùng thủy tận của ngôn ngữ. Ngôn ngữ thần tiên hiển hiện tinh thể một cách không thấy hình hài máu me đâu cả. Người ta đã bao đời đi tìm cõi huyền nhiệm của ngôn ngữ thơ. Mỗi phen trở về, mỗi phen như bó tay lắc đầu, tuyệt nhiên không biết ăn nói ra sao cả. Đành chỉ nói quanh co.
Mai chị về nhớ má em hồng
Đường đi không gió lòng sao lạnh
Bụi vướng ngang đầu mong nhớ mongĐó là chỗ sơn cùng thủy tận của ngôn ngữ. Ngôn ngữ thần tiên hiển hiện tinh thể một cách không thấy hình hài máu me đâu cả. Người ta đã bao đời đi tìm cõi huyền nhiệm của ngôn ngữ thơ. Mỗi phen trở về, mỗi phen như bó tay lắc đầu, tuyệt nhiên không biết ăn nói ra sao cả. Đành chỉ nói quanh co.
Và
biết bao thy sỹ hoằng viễn đã nghĩ rằng, nguyện rằng, mình sẽ suốt đời
không làm một vần thơ nào cả — một phen thể hội cái chỗ dị thường trống
trải vắng vẻ trong lời man mác thiên tiên kia.
Lại
có những nhà tư tưởng như Heidegger, viết bao pho sách lịch kịch nêu
bao câu chất vấn u ẩn, đáo cùng vẫn chỉ nhằm mục đích nhiếp dẫn tư tưởng
tới chỗ mép bờ bất khả tư nghị của thi ca.
Nerval
sau những lần thành tựu cõi miền ngôn ngữ đó, ông bèn lao mình vào cõi
ẩn mật vô ngần của một nguồn siêu thực không tiếng không lời Les
Chimères.
Apollinaire,
sau phút dị thường bước lên tột đỉnh đạm nhiên kia, lập thời nhảy lùi
làm thơ theo thể thái bông lông tầm phào, bất sá lam hồng tố bạch.
Mai chị về em gửi gì không?
Câu hỏi cũng lửng lờ như lời đáp lững lơ. Hỏi mà cũng như không hỏi, không nói, không ngó, không nhìn nhau…
Và chỉ sau khi lên ngựa, chia bào, con người mới để lòng mình bay tỏa khắp đường đi.
Đường đi không gió lòng sao lạnh
Bụi vướng ngang đầu mong nhớ mongTâm sự của người đi, nhưng nhan đề là kẻ ở. Kẻ ở hay người đi cũng một tâm tình ly biệt. Đi giữa không gian, thì cũng như đứng ở trên dâu biển. Lòng sao lạnh? Vì lòng mang chứa tất cả khoảng vắng lạnh? Vì lòng mang chứa tất cả khoảng vắng lạnh không gian… Và tiếng “mong nhớ mong” kia cũng chỉ vọng vào được trong không gian xa hút mà thôi.
Bụi vướng ngang đầu mong nhớ mongTâm sự của người đi, nhưng nhan đề là kẻ ở. Kẻ ở hay người đi cũng một tâm tình ly biệt. Đi giữa không gian, thì cũng như đứng ở trên dâu biển. Lòng sao lạnh? Vì lòng mang chứa tất cả khoảng vắng lạnh? Vì lòng mang chứa tất cả khoảng vắng lạnh không gian… Và tiếng “mong nhớ mong” kia cũng chỉ vọng vào được trong không gian xa hút mà thôi.
Nghĩa
là vọng trở lại vào lòng mình. Từ lòng mình tỏa vào lòng vũ trụ. Lại từ
lòng vũ trụ dội lại lòng mình. Đó là cái vòng kỳ ảo của mong nhớ mong.
Và mong nhớ mong mênh mông như thế, thì mong nhớ mong là cõi của từ bi
tế độ vậy.
Bởi
vì nó mang hải lượng bao hàm. Nó bao dong rừng biển, sớm chiều, canh
gà, sương hoa, cành hoang ngựa lạc. Nó đem thương mến phủ khắp hình hài
vạn vật từ gần gũi tới xa tít dặm xa.
Quê chị về xa tít dặm xa
Vì đó là một quê hương nào riêng biệt nằm tại một bến bờ bỉ ngạn nào vô tức vô thanh, vô biên vô tế.
Quê chị về xa tít dặm xa
Rừng thu chiều xao xác canh gà
Hoa rơi khắp lối sương muôn ngả
Ngựa lạc cành hoang qua lướt quaNgựa lạc? Dẫu ngựa không lạc đường vẫn cứ là lạc nẻo. Nghĩa là: ở trong cõi hư không bao la như thế, thì đâu cũng là lênh đênh, nhưng lênh đênh theo nghĩa vô ngần: trụ vô sở trụ.
Rừng thu chiều xao xác canh gà
Hoa rơi khắp lối sương muôn ngả
Ngựa lạc cành hoang qua lướt quaNgựa lạc? Dẫu ngựa không lạc đường vẫn cứ là lạc nẻo. Nghĩa là: ở trong cõi hư không bao la như thế, thì đâu cũng là lênh đênh, nhưng lênh đênh theo nghĩa vô ngần: trụ vô sở trụ.
Người
ngồi trên ngựa cũng lạc ngựa luôn. Hươu trong rừng cùng một cảnh ngộ
lạc loài như nhau, lại tam trùng lạc lõng nhau, vì bất ngờ sợ hãi nhau,
quay đầu bỏ chạy. Lời thơ lại thêm một chút niêm hoa vi tiếu “theo ngó
theo”.
Ngựa chị dừng bên thác trong veo
Nếu
thác đục lầy cho một chút, ắt có phần gần gũi bụi hồng hơn. Nhưng tại
sao thác lại trong veo cắc cớ ra như thế? Thì trần gian còn biết đem tâm
sự hồng trần ký thác vào đâu? Đó là chỗ đạm nhiên huyền bí lô hỏa thuần
thanh vậy. Nó đốt cháy linh hồn bằng một tiếng trong veo. Nhưng đốt
cháy mà đâu có bỏng da bỏng thịt. Nó cháy để thăng hoa cho linh hồn về
ba la mật, sau một phút linh hồn tạm dừng trong một phen tư lự. Vì dù
sao trận giũ áo cũng còn vướng víu với nhân nghĩa nhân tình.
Ngựa chị dừng bên thác trong veo
Lòng chị buồn khi nắng qua đèo
Nơi đây lá giạt vương chân ngựa
Hươu chạy quay đầu theo ngó theoRồi xẽ xin khóc một cơn vô ngần cho trùng sinh trong vĩnh biệt:
Lòng chị buồn khi nắng qua đèo
Nơi đây lá giạt vương chân ngựa
Hươu chạy quay đầu theo ngó theoRồi xẽ xin khóc một cơn vô ngần cho trùng sinh trong vĩnh biệt:
Rừng đêm nhòa bóng nhớ hoang mang
Ngựa chị dừng bên thác sao vàng
Sao rơi đáy nước vương chưn ngựa
Buồn dâng đôi mi hàng lại hàngTa lại gián tiếp với một sự tình kỳ dị. Nói ra là buồn dưng đôi mi hàng lại hàng, nhưng có bao giờ mối sâu mênh mông và hầu như vô đối tượng lại tràn ra thành hàng lệ. Nhưng đây là hàng lệ riêng biệt của hư không đi về vui chơi êm đềm với không hư thái thiên nhiên tĩnh tịch. Người ta có thể khóc, nhưng không phải khóc vì một mối đoạn trường riêng tây trong một cảnh ngộ nhất định.
Ngựa chị dừng bên thác sao vàng
Sao rơi đáy nước vương chưn ngựa
Buồn dâng đôi mi hàng lại hàngTa lại gián tiếp với một sự tình kỳ dị. Nói ra là buồn dưng đôi mi hàng lại hàng, nhưng có bao giờ mối sâu mênh mông và hầu như vô đối tượng lại tràn ra thành hàng lệ. Nhưng đây là hàng lệ riêng biệt của hư không đi về vui chơi êm đềm với không hư thái thiên nhiên tĩnh tịch. Người ta có thể khóc, nhưng không phải khóc vì một mối đoạn trường riêng tây trong một cảnh ngộ nhất định.
Hoặc
đâu có phải bạ đâu khóc đó như bọn thy sỹ trung niên. Người ta khóc từ
chín kiếp khóc về; như trận mưa vốn từ thiên thu rớt hột. Vì thế nên gọi
là hàng lại hàng. Vì thế nên có chuyện sao rơi đáy nước. Vì thế nên có
chuyện sao vương chưn ngựa. Chưn ngựa ở đây cũng mang đủ trùng quan thời
gian vũ trụ nên mới có thể chạm vào bóng sao rơi từ thời gian tinh thể
rớt về. Người và ngựa và sao và nước bỗng nhiên như nhiên đã đi vào cõi
chung vạn vật nhất thể. Thì từ đó trở lại với đoạn đầu, từ câu hỏi mông
lung tới lời đáp nhẹ nhõm, niềm mong nhớ mong là một tặng vật không lời,
không nhất định là riêng biệt của riêng ai trao gửi lại cho ai. Người
chị và người em kia cũng không có tên tuổi nào được hạn định nơi đâu. Đó
là hai đứa con của trời và đất đẻ ra trong một mùa xuân hôn phối. Thì
mai chị về em gửi gì không, là gửi cho chị hay cho ai? Làm sao ta dám
quyết định? Chỉ biết rằng: chị hãy nhớ má em hồng. Nghĩa là: mùa xuân
xanh còn tồn lưu mãi mãi trong mùa thu ly biệt. Đó là tặng vật của em
trời trao chị đất – nhớ má em hồng là ký ức kỳ ảo Mnémesyne.
Chẳng
hiểu sao đọc thơ Quang Dũng, Nguyễn Du, Hồ Dzếnh, Huy Cận, tôi thường
nghĩ tới người Chiêm Thành. Tội lỗi ông cha chúng ta đối với dân tộc ấy
kể cũng được chuộc phần nào, cũng như ngày xưa Homère đã giải oan cho
người Troyens bị đắm chìm bởi người Hy Lạp.
Mấy
bài thơ của Quang Dũng như giữ lại cho mọi người một niềm tương ứng
mênh mông trong thời đại ngổn ngang oan nghiệt, thế giới cùng xô ùa nhau
vào hủy diệt, tàn phá, trong những trận tẩu hỏa nhập ma. Chiến tranh
trong thời Quang Dũng dù sao cũng còn để lại cho người một dư địa để
hoài niệm nhớ thương nhau. Nhưng dần dà, chút tình thương còn sót cũng
mất đi giữa hỗn độn. Lúc bấy giờ e chỉ còn cửa quỷ đối thoại với nhà ma.
Quang Dũng cũng linh cảm sự đó, nên bài “Đôi Mắt Người Sơn Tây” khép
lại với mấy tiếng “bao giờ, bao giờ” ngậm ngùi khôn tả:
Bao giờ trở lại đồng Bương Cấn?
Về núi Sài Sơn ngóng lúa vàng
Sông Đáy chậm nguồn quanh Phủ Quốc
Sáo diều khuya khoắt thổi đêm trăng
Bao giờ ta gặp em lần nữa
Ngày ấy thanh bình chắc nở hoa
Đã hết sắc màu chinh chiến cũ
Còn có bao giờ em nhớ taKhoảng trống lại trở về ngập khắp mép bờ ngôn ngữ. Như muốn đánh chìm hết mọi lời thân thiết đã thốt ra. Chúng ta không còn biết phải giải thích thơ Quang Dũng ra sao được nữa cả.
Về núi Sài Sơn ngóng lúa vàng
Sông Đáy chậm nguồn quanh Phủ Quốc
Sáo diều khuya khoắt thổi đêm trăng
Bao giờ ta gặp em lần nữa
Ngày ấy thanh bình chắc nở hoa
Đã hết sắc màu chinh chiến cũ
Còn có bao giờ em nhớ taKhoảng trống lại trở về ngập khắp mép bờ ngôn ngữ. Như muốn đánh chìm hết mọi lời thân thiết đã thốt ra. Chúng ta không còn biết phải giải thích thơ Quang Dũng ra sao được nữa cả.
Ngày ấy thanh bình chắc nở hoaNhưng
có lẽ ông không tin ở ngày ấy, ông không nghĩ rằng ngày nở hoa ấy sẽ
về. Còn có bao giờ em nhớ ta? Nghĩa là không còn có bao giờ nữa cả?
Chúng ta sẽ tiếp tục chết hết. Người ta sẽ tiếp tục giết nhau cho tới
buổi chung cục thời gian. Cuộc chiến tranh ngày nay không còn chút gì
giống như chiến tranh những thời đại trước. Có những cuộc chiến tranh
huy hoàng như một trận mưa rào rực rỡ, làm hồi sinh con người trong tâm
thức từ bi. Nhưng có những cuộc chiến tranh vốn từ trong tinh thể là làm
tan rã tiêu diệt mất bản tính con người. Ngay cả con ngợm, con đười ươi
cũng không còn sống sót một mống nào hết cả. Thì như thế? Còn có bao
giờ em nhớ ta?
Bùi Giáng (1926–1998)
______________________________________
Người
ta nhầm lẫn một cách kỳ quặc cái ý nghĩa sơ thủy của chiến tranh. Cuộc
chiến tranh bao dong của những ông Nguyễn Huệ, chiến tranh bác ái của
những ông Napoléon, chiến tranh đó không còn tự nhận diện ra mình nữa
trong cuộc chiến tranh tàn phá ngày nay. Tolstoï ngày xưa chẳng hiểu gì
về Napoléon hết cả, cũng như chúng ta ngày nay chẳng hiều gì cả về cuộc
chiến tranh của chúng ta. Thật là cắc cớ. Còn có một chân lý dị thường
ẩn tàng trong Dịch Kinh của Khổng Tử đang khiến mọi người tư tưởng ngậm
ngùi không còn biết phải thốt bất cứ một lời gi trong hiện trạng năm
châu. Bài thơ Quang Dũng hiện ra tại chỗ chênh vênh bát ngát và thê thảm
nhất trong sử lịch con người. Nó chỉ đạm nhiên và thống thiết khơi rộng
những khoảng trống vắng ra để cho mọi vấn đề được nhận định và tự tìm
lời giải đáp.
Bàn
luẩn quẩn mãi là vô lối. Chỉ nên thong dong đọc thơ như uống nước mía,
như dõi theo cánh chuồn chuồn, như nằm ngủ gọi em Thúy Kiều em Thúy Vân
em Đạm Tiên, em Hoạn Thư em Bạc Hạnh, em Sở Khanh, em Mã Giám Sinh, mọi
mọi em em của em Tố Như Tử em Liệp Hộ em Thanh Hiên, em Hiền em Thánh,
em Cành em Nhánh, em Trái Ớt, em Muối Tiêu, em Soài Riêng sa rụng, em
Bương Cấn em Sài Sơn…
Bao giờ trở lại đồng Bương Cấn
Về núi Sài Sơn ngóng lúa vàng
Sông Đáy chậm nguồn quanh Phủ Quốc
Sáo diều khuya khoắt thổi đêm trăng.Tuy nhiên riêng đối với học sinh đang tập đi thi để cuối năm cưới vợ thì chớ nên lẩn thẩn chiêm bao đọc thơ nhiều quá.
Về núi Sài Sơn ngóng lúa vàng
Sông Đáy chậm nguồn quanh Phủ Quốc
Sáo diều khuya khoắt thổi đêm trăng.Tuy nhiên riêng đối với học sinh đang tập đi thi để cuối năm cưới vợ thì chớ nên lẩn thẩn chiêm bao đọc thơ nhiều quá.
Nguồn: Bùi Giáng, Đi vào cõi thơ, Ca Dao xuất bản, Saigon, 1969; An Tiêm tái bản lần thứ nhất tại Paris năm 1998. Bản điện tử do talawas thực hiện.
_________________________________________
Thực ra, những câu thơ:
Trả lờiXóaMai chị về em gửi gì không
Mai chị về nhớ má em hồng
Đường đi không gió lòng sao lạnh
Bụi vướng ngang đầu mong nhớ mong
không phải là thơ Quang Dũng mà là thơ của Nguyễn Đình Tiến, một người bạn của QD. Bài này có tên là "Dặm về" hay "Mai chị về".
Hoàng Dục hiệu đính.