Tuệ
Sỹ một thiền sư, một nhà thơ, một nhà nghiên cứu phê bình văn học của
miền Nam trước đây. Với sư ông - thi sĩ này, những ngày còn đi học mình rất mê mẩn những bài
thơ của ông. Có những vần thơ của Tuệ Sỹ khi chạm vào mình có cảm giác
tê sượng cả người và rồi tâm hồn cứ phiêu bồng theo lời thơ mà đi vào
cõi
thống khoái vô biên:
"Trời viễn mộng đọa đày đi mấy thuở
Mộng kiêu hùng hay muối mặn giữa mù khơi."
Cũng có lúc rời rã những gì gọi là tạo vật quanh mình để quay về với chính tâm hồn mình mà thảng thốt:
"Phút vội vã bỗng thấy mình du thủ
Thắp đèn khuya ngồi kể chuyện trăng tàn..."
Và mình cũng rất mê man những tác phẩm nghiên cứu biên khảo như "Tô Đông Pha - Những phương trời viễn mộng" (1973),... để rồi bị chấn động bởi câu thơ của thi hào họ Tô: "Đa tình khước bị vô tình não" trong bài từ của ông, "Điệp luyến hoa":
"Tường lí thu thiên tường ngoại đạo
Tường ngoại hành nhân
Tường lí giai nhân tiếu
Tiếu tiệm bất văn thanh tiệm tiểu
Đa tình khước bị vô tình não".
(Bên trong tường là cái xích đu và bên ngoài tường là con đường cái. Bên ngoài tường là lữ khách đi và bên trong tường là người đẹp đang cười. Cười càng lúc càng nhỏ và tiếng cười càng lúc càng ngậm ngùi. Cái đa tình đã thường bị cái vô tình làm ray rứt).
Từ đó, mình ngộ ra cái biện chứng giữa thơ và tâm hồn:
"Thơ từ phế phủ ra
Lại làm sầu phế phủ".
Những ngày gần đây, đọc lại Trung Niên Thi Sĩ Bùi Giáng, mình được gặp lại Tuệ Sỹ trong "Đi vào cõi thơ" của của người điên rực rỡ Báng Giùi. Càng đọc càng thú vị về Thích Tuệ Sỹ, nên đăng bài viết của Bùi thi sĩ lên đây để bạn bè cùng thưởng thức.
"Trời viễn mộng đọa đày đi mấy thuở
Mộng kiêu hùng hay muối mặn giữa mù khơi."
Cũng có lúc rời rã những gì gọi là tạo vật quanh mình để quay về với chính tâm hồn mình mà thảng thốt:
"Phút vội vã bỗng thấy mình du thủ
Thắp đèn khuya ngồi kể chuyện trăng tàn..."
Và mình cũng rất mê man những tác phẩm nghiên cứu biên khảo như "Tô Đông Pha - Những phương trời viễn mộng" (1973),... để rồi bị chấn động bởi câu thơ của thi hào họ Tô: "Đa tình khước bị vô tình não" trong bài từ của ông, "Điệp luyến hoa":
"Tường lí thu thiên tường ngoại đạo
Tường ngoại hành nhân
Tường lí giai nhân tiếu
Tiếu tiệm bất văn thanh tiệm tiểu
Đa tình khước bị vô tình não".
(Bên trong tường là cái xích đu và bên ngoài tường là con đường cái. Bên ngoài tường là lữ khách đi và bên trong tường là người đẹp đang cười. Cười càng lúc càng nhỏ và tiếng cười càng lúc càng ngậm ngùi. Cái đa tình đã thường bị cái vô tình làm ray rứt).
Từ đó, mình ngộ ra cái biện chứng giữa thơ và tâm hồn:
"Thơ từ phế phủ ra
Lại làm sầu phế phủ".
Những ngày gần đây, đọc lại Trung Niên Thi Sĩ Bùi Giáng, mình được gặp lại Tuệ Sỹ trong "Đi vào cõi thơ" của của người điên rực rỡ Báng Giùi. Càng đọc càng thú vị về Thích Tuệ Sỹ, nên đăng bài viết của Bùi thi sĩ lên đây để bạn bè cùng thưởng thức.
____________
Tuệ
Sỹ một vị sư. Ông viết văn quá nghiêm túc, những sở tri của ông về Phật
học quả thật quảng bác vô cùng. Thấy ông vẻ người khắc khổ, không ai
ngờ rằng linh hồn kia còn ẩn một nguồn thơ thâm viễn u u.... Một bữa ông
đọc cho tôi nghe hai câu thơ chữ Hán của ông :
Thâm dạ phong phiêu nghiệp ảnh tùy
Hiện tiền vị liễu lạc hoa phi
Hiện tiền vị liễu lạc hoa phi
Ông
bảo làm sao tiếp cho hai câu để nên một bài tứ tuyệt. Tôi đề nghị với
ông nên nhờ ni cô Trí Hải tiếp giùm. Ông ngượng nghịu bảo tôi đừng nên
rỡn đùa như thế. Vậy tôi xin lai rai thử viết :
Thâm dạ phong phiêu nghiệp ảnh tùy
Hiện tiền vị liễu lạc hoa phi
Phiêu bồng tâm sự tân toan lệ
Trí Hải đa tàm trúc loạn ty
Hiện tiền vị liễu lạc hoa phi
Phiêu bồng tâm sự tân toan lệ
Trí Hải đa tàm trúc loạn ty
Và xin ông chả nên lấy thế làm bực mình.
Nhưng
ai có ngờ đâu nhà sư kín đáo e dè kia, không hề bao giờ có vướng lụy,
lại còn mang một nguồn thơ Việt phi phàm ? Một bài thơ "Không đề" của
ông đủ khiến ta khiếp vía mất ăn mất ngủ :
Đôi mắt ướt tuổi vàng khung trời hội cũ
Áo màu xanh không xanh mãi trên đồi hoang
Phút vội vã bỗng thấy mình du thủ
Thắp đèn khuya ngồi kể chuyện trăng tàn
Áo màu xanh không xanh mãi trên đồi hoang
Phút vội vã bỗng thấy mình du thủ
Thắp đèn khuya ngồi kể chuyện trăng tàn
Mới nghe bốn câu thôi, tôi đã cảm thấy lạnh buốt linh hồn, tê cóng cả cõi dạ.
Từ núi lạnh đến biển im muôn thuở
Đỉnh đá này và hạt muối đó chưa tan
Cười với nắng một ngày sao chóng thế
Nay mùa đông mai mùa hạ buồn chăng
Đếm tóc bạc tuổi đời chưa đủ
Bụi đường dài gót mỏi đi quanh
Giờ ngó lại bốn vách tường ủ rũ
Suối nguồn xa ngược nước xuôi ngàn
Tôi hoảng vía đề nghị : Đại Sư nên gác bỏ viết sách đi. Và làm thơ tiếp nhiều cho, Nếu không thì nền thi ca Việt mất đi một thiên tài quá lớn.
Đỉnh đá này và hạt muối đó chưa tan
Cười với nắng một ngày sao chóng thế
Nay mùa đông mai mùa hạ buồn chăng
Đếm tóc bạc tuổi đời chưa đủ
Bụi đường dài gót mỏi đi quanh
Giờ ngó lại bốn vách tường ủ rũ
Suối nguồn xa ngược nước xuôi ngàn
Tôi hoảng vía đề nghị : Đại Sư nên gác bỏ viết sách đi. Và làm thơ tiếp nhiều cho, Nếu không thì nền thi ca Việt mất đi một thiên tài quá lớn.
Ông đáp : - Để về hỏi lại cô Trí Hải xem có đúng như lời thế chăng.
Đôi mắt ướt tuổi vàng
Cung trời
Hội cũ
Cung trời
Hội cũ
Xin xuống giòng thư thả như thế. Ắt nhìn thấy chất trang trọng dị thường của hoài niệm. Hoài niệm gì ? - Cung trời hội cũ.
Một hội đạp thanh ? Một hội nao nức ? - "Giờ nao nức của một thời trẻ dại ?".
Đôi mắt ướt tuổi vàng khung trời hội cũ...
Mở
lời ra, nguồn thơ trực nhập vào trung tâm cơn mộng chiêm niệm. Đầy đủ
hết mọi yếu tố bát ngát : một cung trời xán lạn bao la, một hội cũ xao
xuyến, một tuổi vàng long lanh.... Một đôi mắt ướt ngậm ngùi của hiện
tại.
Nhưng
mạch thơ đi ngầm. Tiết nhịp âm thầm nhiếp dẫn. Thi sĩ không cần tới một
hình dung từ nào cả, vẫn nói được hết mọi người đều "phải nói" với mọi
người "muốn nghe" với riêng mình "không thiết chi chuyện nói".
Người
thi sĩ xuất chúng xuất thần thường có phong thái khác thường đó. Họ nói
tất ít mà nói rất nhiều. Họ nói rất nhiều mà chung quy hồ như chẳng
thấy gì hết. Họ nói cho họ, mà như nói hết cho mọi người. Nói cho mọi
người mà cơ hồ chẳng bận tâm gì tới chuyện thiên hạ nghe hay chẳng nghe.
Nỗi vui, nỗi buồn của họ, dường như chẳng phi giống lối vui buồn của
chúng ta. Do đó chúng ta trách móc họ một cách lệch lạc hết cả (par
manque de justice interne).
Trong
một cuộc vui, ta hỏi họ vài điều. Họ lơ đễnh thờ ơ, ta tưởng họ kiêu
bạc. Trong lúc mọi người đang gào khóc giữa đám tang, họ phiêu nhiên đi
qua, trông có vẻ như mỉm cười, niêm hoa vi tiếu. Ta tưởng họ tàn nhẫn
thô bạo.
Vua
Gia Long ngày xưa đã từng lấy làm quái dị về thái độ Nguyễn Du : "Trẫm
dùng người, không phân biệt kẻ Nam kẻ Bắc. Ai có tài thì trẫm trọng dụng
(... ...). Cớ sao khanh lại u sầu ít nói suốt năm như thế ?".
Ông
vua kia lấy làm lạ là phải lẽ lắm, hợp với lương tri thói thường thiên
hạ lắm. Ông không thể hiểu vì sao vị di thần kia cứ miên man như nằm
trong cõi mộng thần di, hồn dịch !
Vua
đã ban cho chan hòa mưa móc, lộc trọng quyền cao đặc ân thâm hậu như
thế, cớ sao Liệp Hộ chưa vừa lòng, vẫn chưa cứ thả mộng chạy lang thang
về chân trời hướng khác.
Đáp : Ấy chính bởi đôi mắt nhìn đây mà thấy những đâu đâu.
Đôi mắt ướt tuổi vàng
Khung trời hội cũ
Khung trời hội cũ
Đôi mắt ướt ? Đôi mắt của ai ? Vì sao ướt ? Vì lệ trào, hay là vì quá long lanh ?
Thi sĩ không nói rõ. Ấy là giữ một khoảng trống vắng lặng phóng nhiệm cho thơ.
Tha
hồ chúng ta tự do nghĩ hai ba lối. Hoặc là đôi mắt thi nhân ướt trong
hiện tại vì nhớ nhung một trời hội cũ. Hoặc là đôi mắt giai nhân nào
long lanh dịu mật như nước suối chan hòa, soi bóng một khung trời hội cũ
bất tuyệt nào, mà ngày nay tại hạ đã đánh mất rồi chăng ?
"Áo màu xanh không xanh mãi trên đồi hoang"
Áo
nào màu xanh ? Màu xanh màu chàm của cô gái Mán gái Mường, gái núi nào
xưa kia băng rừng và thi nhân đã ngẫu nhiên một lần nhìn đắm đuối ?
Tôi
nói không sai sự thật mấy đâu. Vì Tuệ Sỹ vốn xưa kia ở Lào. Cha mẹ ông
kiều cư trên đất Thượng Lào Trung Việt. Bà mẹ ông thỉnh thoảng cũng trở
về Sài Gòn tới chùa viếng ông đem quà cho ông một đôi dép riêng biệt,
một tấm khăn quàng riêng tây.
Đôi mắt ướt tuổi vàng
Khung trời hội cũ
Áo màu xanh
Không xanh mãi
Trên đồi hoang
Phút vội vã bỗng thấy mình du thủ.
Thắp đèn khuya ngồi kể chuyện trăng tàn
Phút vội vã bỗng thấy mình du thủ ?
Khung trời hội cũ
Áo màu xanh
Không xanh mãi
Trên đồi hoang
Phút vội vã bỗng thấy mình du thủ.
Thắp đèn khuya ngồi kể chuyện trăng tàn
Phút vội vã bỗng thấy mình du thủ ?
Mình
là thân Bồ tát, quanh năm kinh kệ trai chay, thế sao bỗng nhiên một
phút vội vã lại dám làm thân du thủ ? Dám gác bỏ kệ kinh ? Dám mở cuộc
thắp đèn khuya ngồi kể chuyện trăng tàn ?
Phải
có nhìn thấy khuôn mặt khắc khổ chân tu của Tuệ Sỹ, mới kinh hoàng vì
lời nói thăm thẩm đơn sơ nọ. Lời nói như ngân lên từ đáy sâu linh hồn
tiền kiếp, từ một quê hương trên thượng du bao la rừng núi gió sương
canh chiều nguyệt rung rinh trong đêm lạnh.
Từ núi lạnh đến biển im muôn thuở
Đỉnh đá này và hạt muối đó chưa tan
Cười với nắng một ngày sao chóng thế
Nay mùa đông mai mùa hạ buồn chăng
Đỉnh đá này và hạt muối đó chưa tan
Cười với nắng một ngày sao chóng thế
Nay mùa đông mai mùa hạ buồn chăng
Mối tình rộng thả suốt biển non im lìm lạnh lẽo. Một hạt muối vẫn chưa tan. Một nếp u ẩn của lòng mình bơ vơ không gột rửa.
Từ núi lạnh đến biển im muôn thuở
Đỉnh đá này và hạt muối đó chưa tan
Đỉnh đá này và hạt muối đó chưa tan
Ta tưởng như nghe ra "cao cách điệu" bi hùng của một Liệp Hộ, một Nerval, một chỗ trầm thanh nhất trong cung bậc Nietzche.
Thy
nhân đã mấy phen ngồi ngó trăng tàn ? Ngồi trên một đỉnh đá ? Bốn bề
rừng thiêng giăng rộng ngút ngàn màu trăng xanh tiếp giáp tới chân trời
xa xuôi đại hải ?
Đỉnh
đá và hạt muối là hai chốn kết tụ tinh thể của núi và biển. Đỉnh đá quy
tụ về mọi hương màu trời mây rừng rú. Hạt muối chứa chất cái lượng hải
hàm của trùng dương. Đó là cái bất tận của tâm tình dừng sững tại giữa
tuết nguyệt phiêu du :
Cười với nắng một ngày sao chóng thế
Nay mùa đông mai mùa hạ buồn chăng
Nay mùa đông mai mùa hạ buồn chăng
Một tiếng "buồn chăng" lơ lửng nửa như chất vấn, nửa như ngậm ngùi ta thán, dìu về cả một khúc tâm thanh đoạn trường :
Sen tàn cúc lại nở hoa
Sầu dài ngày ngắn đông đà sang xuân
Đếm tóc bạc tuổi đời chưa đủ
Bụi đường dài gót mỏi đi quanh
Tiết nhịp lời thơ lại biến đổi :
Sầu dài ngày ngắn đông đà sang xuân
Đếm tóc bạc tuổi đời chưa đủ
Bụi đường dài gót mỏi đi quanh
Tiết nhịp lời thơ lại biến đổi :
Đếm tóc bạc
Tuổi đời
Chưa
Đủ
Bụi đường dài
Gót
Mỏi
Đi
Quanh
Tiết điệu rạc rời như gót mỏi đi quanh. Một tuổi đời chưa đủ ? Một tuổi xuân chưa vừa ? Một tuổi vàng sớm chấm dứt ? Một tuổi "đá" sớm từ giã mọi yêu thương ?
Tuổi đời
Chưa
Đủ
Bụi đường dài
Gót
Mỏi
Đi
Quanh
Tiết điệu rạc rời như gót mỏi đi quanh. Một tuổi đời chưa đủ ? Một tuổi xuân chưa vừa ? Một tuổi vàng sớm chấm dứt ? Một tuổi "đá" sớm từ giã mọi yêu thương ?
Giờ ngó lại bốn vách tường ủ rũ
Suối nguồn xa
Ngược nước
Xuôi ngàn
Suối nguồn xa
Ngược nước
Xuôi ngàn
Bài thơ dừng lại. Dư âm bất tuyệt kéo dài trong đềm lữ thư khép mình trong bốn bức tường với nhạt nhòa ủ rũ ngục tù.
Chỉ một bài thơ, Tuệ Sỹ đã trùm lấp hết chân trời mới cũ Đường Thi Trung Hoa tới Siêu Thực Tây Phương./.
(Bùi Giáng - Đi vào cõi thơ - trích trong
"Bùi Giáng trong cõi người ta", Đoàn Tử Huyến chủ biên,
NXB Lao Động, Hà Nội, 2012, tr. 133-138).
"Bùi Giáng trong cõi người ta", Đoàn Tử Huyến chủ biên,
NXB Lao Động, Hà Nội, 2012, tr. 133-138).
______________
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét