1. Nguyễn Bính (1918 –
1966) tên khai sinh là Nguyễn Trọng Bính, lúc mới vào Nam Bộ ông lấy tên
là Nguyễn Bính Thuyết. Ông sinh tại làng Thiện Vịnh, xã Đồng Đội, huyện
Vụ Bản, tỉnh Nam Định. Ông cất tiếng khóc chào đời từ một mái ấm nhà
nho nghèo. Thuở bé, do mẹ mất sớm, cha đi bước nữa, ông phải về ở với
cậu ruột, được cậu ruột nuôi dạy. Lớn lên, năm 1931, ông theo nhà thơ
Trúc Đường, người anh trai của ông ra sống Hà Nội. Vì sinh kế, Nguyễn
Bính đã phải lưu
lạc nhiều nơi, vừa dạy học vừa làm thơ. Năm 1943,
Nguyễn Bính vào Nam Bộ. Năm 1945, Cách mạng tháng Tám tham gia họat động
và kháng chiến chống thực dân Pháp ở Nam Bộ, Năm 1954, tập kết ra Bắc,
công tác ở Hội nhà văn. Năm 1956, ông làm chủ bút tờ báo “Trăm hoa”, năm
1964, công tác ở Ty văn hóa Hà Nam cũ. Ông mất 20 – 1 - 1966. Năm
2000, ông được Nhà nước tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ
thuật.
2. Sự nghiệp văn chương :
Nguyễn Bính sáng tác thơ vào năm 13 tuổi. Lúc bấy giờ nhà thơ nổi tiếng
với bài “Cô hái mơ”, 1937. Năm 1940, ông được văn bút Tự Lực văn đoàn
tặng giải Khuyến khích với tập thơ Tâm hồn tôi. Năm 1944, nhà thơ được
giải Nhất văn học Nam Xuyên ở Sài Gòn với truyện thơ Cây đàn tỳ bà. Trên
hành trình sáng tạo, Nguyễn Bính ướm bút vào các trang thể loại khác
nhau như thơ, kịch bản chèo, truyện thơ. Thể loại nào ông cũng gặt hái
những thành công nhất định. Sang tác của ông tiểu biểu có : Tâm hồn tôi
(1940), Lỡ bước sang ngang (1940), Hương cố nhân (1941), Một ngàn cửa sổ
(1941), Người em gái lầu hoa (1942), Mười hai bến nước (1942), Mây Tần
(1942). Cây đàn tì bà (truyện thơ,1944), Tiếng trông đêm xuân (truyện
thơ, 1958), Đêm sao sáng (1962). Trong tất cả những tác phẩm của ông,
tác phẩm ghi danh ông vào bảng vàng của lịch sử văn học là Lỡ bước sang
ngang, Hương cố nhân và Một ngàn cửa sổ.
3. Quan điểm nghệ thuật :
Nguyễn Bính là một nhà thơ mới, một nhà thơ lãng mạn, một nhà thơ hiện
đại. Trong khi các nhà thơ mới khác sáng tác theo chủ nghĩa lãng mạn,
thậm chí có nhà thơ đi vào chủ nghĩa tượng trưng, siêu thực ; thì Nguyễn
Bính lại ngược gió, quay về tìm hương cố nhân trong văn hoá dân gian.
Nguyễn Bính đã tạo cho mình một lối đi nghệ thuật riêng, cày xới và ươm
trồng cho mình một vườn thơ nhà quê hiện đại đặc sắc. Sở dĩ được như vậy
là do nhà thơ thực sự yêu thơ, thực sự tài năng và có mọt quan niệm
nghệ thuật riêng. Chính quan niệm nghệ thuật này sẽ là nguồn sáng soi tỏ
khuynh hướng sáng tác của chính ông, khẳng định phong cách thơ độc đáo
của riêng ông.
Nói đến quan niệm sáng tác của Nguyễn Bính, ta không thể không chú ý
đến bài thơ "Chân quê". "Chân quê" là bài thơ mang thông điệp thẫm mĩ,
thể hiện rõ quan niệm nghệ thuật của nhà thơ. "Chân quê" là tuyên ngôn
nghệ thuật của một trường thơ dân gian – hiện đại mà Nguyễn bính chấp
bút viết nên. Theo nhà thơ, thơ hiện đại dù khoác chiếc áo hiện đại đi
chăng nữa thì cũng cần giữ nét đẹp nguyên sơ quê mùa. Chiếc áo thơ hiện
đại đừng đơm nút “cài khuy bấm” sỗ sàng, lộ liễu. Chiếc áo thơ hiện đại
nên là sự cách điệu của "chiếc áo lụa sồi", "cái dây lưng đuĩ nhuộm hồi
sang xuân". Cây thơ hiện dù thế nào cũng phải mọc lên từ mảnh đất dân
tộc, phải mang hương đồng gió nội như hoa chanh mọc tự vườn chanh thuở
nào :
Hoa chanh nở giữa vườn chanh
Thầy u mình với chúng mình chân quê
Hôm qua em đi tỉnh về
Hương đồng gió nội bay đi ít nhiều
(Chân quê – 1938)
Thơ hút nhụy từ hiện thực đời. Thơ chảy ra từ suối nguồn quê hương đất
nước. Con đò thơ dù xuôi ngược trên nhánh sông đời nào, có nhớ con sông
xa nào thì con người trên con đò kia luôn nhớ về quê nhà. Có như vậy
thơ mới tấu lên khúc nhạc tình quê tha thiết, thơ mới rung động hồn
người :
Con đò thì nhớ sông xa
Con người thì nhớ quê nhà bao nhiêu
(Trải bao nhiêu núi sông rồi)
Thơ phải nói điệu quê, lời quê và thấm đượm tình quê. Làm thơ là nói
lên cái điệu ca dao tục ngữ, bởi người thơ được tắm đẫm trong suối nguồn
văn học dân gian nên thơ phải chở nặng hồn xưa đất nước :
Quê tôi có ca dao tục ngữ
Trong bụng mẹ đã từng mê tiếng hát
Nên quê tôi ai cũng biết làm thơ
(Bài thơ quê hương – 1966)
Làm thơ là sáng tạo những giá trị tinh thần, có ý nghĩa thẩm mĩ nhằm
mục đích giãi bày tâm hồn mình và thăng hoa tình cảm, cảm xúc của người
đọc. Nhưng làm thơ là vì duyên bút mực nên cũng có nghĩa là chấp nhận
thân phận long đong. Đấy là một sự thực đời sống của người cầm bút. Chấp
nhận sự thực ấy để sáng tác đòi hỏi phải đam mê cái đẹp, cái thiện :
Ai bảo dính vào duyên bút mực
Suốt đời mang lấy số long đong
Người ta đi kiếm giàu sang cả
Mình chỉ mơ toàn chuyện viễn vông
(Thi sĩ)
4. Phong cách thơ :
4.1. Hồn xưa đất nước mà vẫn hiện đại :
- Hoài Thanh: “Giá Nguyễn Bính sinh ra thời trước, tôi chắc chắn
người đã làm những câu ca dao mà dân quê vẫn hát quanh năm và những tác
phẩm của người bây giờ đã có vô số nhà nghiên cứu” (Thi nhân Việt Nam).
- Ý kiến của Hoài Thanh định hướng cho sự cảm nhận hồn thơ Nguyễn
Bính. Thơ Nguyễn Bính như bật ra từ hồn quê, từ thửa đất và cây lúa
Việt Nam. Quê hương đã đúc nên từng chữ từng lời cho thơ ông. Sức mạnh
sáng tạo của nhà thơ làng Thiện Vịnh bắt nguồn từ nơi đồng đất trắng
nước trắng trời của quê hương ông. Vì vậy, Tô Hoài đã nhận xét: “Thơ
Nguyễn Bính là nhánh hoa trong trào lưu cách tân thơ. Và cùng với Nguyễn
Bính, xuất hiện một trường thơ một phái thơ”.
- Bài thơ “Chân quê” có thể được xem như là quan niệm của phái thơ này và của Nguyễn Bính :
Hoa chanh nở giữa vườn chanh,
Thầy u mình với chúng mình chân quê.
Hôm qua em đi tỉnh về,
Hương đồng gió nội bay đi ít nhiều.
Đúng là tâm hồn Nguyễn Bính lộng ngát hương đồng gió nội, thấm đẫm hồn
xưa đất nước. Tuy vậy, Nguyễn Bính không có cái thô mộc quê mùa. Nguyễn
Bính vẫn theo dòng thơ mới 1932 - 1945, hiện đại mà vẫn giữ được mạch
hồn dân tộc.
Đã thấy xuân về với gió đông,
Với trên màu má gái chưa chồng.
Bên hiên hàng xóm cô hàng xóm,
Ngước mắt nhìn trời đôi mắt trong.
(Xuân về - Tập thơ Tâm hồn tôi)
4.2. Thể loại thơ lục bát :
- Thể thơ lục bát trong thơ Nguyễn Bính mềm mại, uyển chuyển,
giàu nhạc điệu. Nhà thơ thương ngắt nhịp hai chữ, kiểu ngắt nhịp này tạo
nên âm hưởng trầm buồn, tha thiết. Cách tạo khổ thơ cũng đậm chất ca
dao dân ca. Nếu một bài ca dao dân ca chỉ có 2 hay 4 hay 6 dòng lục bát,
thì thơ lục bát Nguyễn Bính cũng có những bài có số lượng dòng như thế.
Sau đây là một số bài tiêu biểu :
- Hồn anh như hoa cỏ may
Một chiều cả gió bám đầy áo em
(Hoa cỏ may)
- Gió chiều cầu nguyện đâu đây
Nắng chiều cắt đọan một ngày cuối thu
Sư già quét lá sau chùa
Để thiêu xác lá trước giờ lên chuông
(Chùa vắng)
- Lá rơi theo gió lá bay
Bên hồ ta đứng đắm say nhìn hồ
Sương mai đây đó trăng mờ
Như còn lưu luyến đôi bờ cây xanh
Xa trên mặt nước long lanh
Buông thuyền cô gái nghiêng mình hái sen
(Bên hồ)
Cái mới của Nguyễn Bính là tạo ra khổ 2 dòng, 4 dòng, 6 dòng trong
một bài thơ. Chính cách tạo khổ này tạo cảm giác gần gụi với thơ ca dân
gian. Trong bài thơ "Đám cuối cùng", khổ đầu chỉ có hai dòng lục bát : Hội làng mở giữa mùa thu - Giời cao gió cả giăng như ban ngày. Ở "Chờ nhau", khổ cuối chỉ có hai dòng : Ai làm cả gió đắt cau - Mấy hôm sương muối cho giầu đổ non . Khổ 4 dòng thơ ở bài thơ "Tương tư" : Nhà
em có một giàn giầu - Nhà tôi có một hàng cau liên phòng - Thôn Đòai
thì nhớ thôn Đông - Cau thôn Đoài nhớ giầu không thôn nào ?. Hay khổ 6 dòng :
Hội làng còn một đêm nay
Gặp em còn một lần này nữa thôi
Phường chèo đóng Nhị Độ Mai
Sao em lại đứng với người đi xem
Mấy lần tôi muốn gọi em
Lớp Mai Sinh tiễn Hạnh Nguyên sang Hồ.
(Đêm cuối cùng)
- Về thanh điệu và nhịp trong bài thơ lục bát, Nguyễn Bính kế thừa quy
luật thanh điệu và nhịp chẵn (2/2) của thơ lục bát dân gian, đồng thời
ông cũng rất sáng tạo về thanh điệu và nhịp. Bên cạnh câu lục bát phối
thanh và nhịp cổ điển :
Em nghe / họ nói / mong manh
Hình như họ biết / chúng mình / với nhau
(Chờ nhau)
Thơ ông vẫn có những bài phá cách về quy luật thanh điệu, tạo tiết tấu mới :
Hôm nay / dưới bến / xuôi đò
Thương nhau / qua cửa tò vò / nhìn nhau
Anh đi đấy / anh về đâu ?
Cánh buồm nâu, / cánh buồm nâu, / cánh buồm…
(Không đề)
4.3. Nhân vật trữ tình
- Đọc thơ Nguyễn Bính tưởng như gặp những nhân vật trữ tình của ca
dao dân ca cổ truyền. Đấy là những cô gái nông thôn làm nghề canh cửi,
trồng dâu, nuôi tằm, dệt lụa :
Em là con gái trong khung cửa
Dệt lụa quanh năm với mẹ già
Lòng trẻ con như cây lụa trắng
Mẹ già chưa bán chợ làng xa.
(Mưa xuân)
Dù quen thuộc nhưng người đọc vẫn nhận ra ở những cô gai nông thôn ấy
có nét mới. Các cô gái trong ca dao không tự phân tích tâm lí, còn cô
gái trong thơ Nguyễn Bính luôn tự soi lại mình, tự phân tích nội tâm của
chính mình. Đây là biểu hiện của cái tôi tự ý thức, cái tôi cá thể.
Lòng thấy giăng tơ một mối tình
Em ngừng tay lại giữa tay xinh
Hình như hai má em bừng đỏ
Có lẽ là em nghĩ đến anh.
(Mưa xuân)
Hay:
Em ơi! Em ở lại nhà
Vườn dâu em đốn mẹ già em thương
Mẹ già một nắng hai sương
Chị đi một bước trăm đường xót xa
Cậy em em ở lại nhà
Vườn dâu em đốn, mẹ già em thương.
(Lỡ bước sang ngang)
- Ngay cả những hình tượng anh trai làng cũng là một “người lạ mà quen biết” :
Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông
Một người chín nhớ mười mong một người
(Tương tư)
Nhân vật trữ tình, anh trai làng trong thơ Nguyễn Bính có những biểu hiện tâm trạng thực tế gắn liền với thời cuộc :
Hôm qua em đi tỉnh về
Đợi em ở mãi con đê đầu làng
Khăn nhung quần lĩnh rộn ràng
Áo cài khuy bấm em làm khổ tôi?
(Chân quê)
Thậm chí nhân vật trữ tình trong thơ Nguyễn Bính triết lí nữa:
Mẹ cha thì nhớ thương mình
Mình đi thương nhớ người tình xa xôi.
(Thư gửi thầy mẹ)
- Nhân vật trữ tình : cái tôi Nguyễn Bính. Đấy là cái tôi thi sĩ :
"Mình tôi giời bắt làm thi sĩ" (Hoa với rượu), “Tôi là thi sĩ của yêu
thương”, “Thơ thẩn đường chiều một khách thơ - Say nhìn xa rặng núi
xanh lơ - Khí trời lặng lẽ và trong trẻo - Thấp thoáng rừng mơ cô hái
mơ” (Cô hái mơ). Đấy cũng là cái tôi thôn dân. Cái tôi của Nguyễn Bính
trong thơ cũng vẫn là cái tôi nội cảm như bao nhiêu nhà thơ lãng mạn
khác. Nhưng cái tôi nội cảm của Nguyễn Bính cũng có nét riêng độc đáo,
đó là cái tôi tình quê luôn đồng vọng hồn quê, tâm lí dân quê. Tình quê
trong thơ ông là tình cảm hướng về những gì tốt đẹp nhất, thiêng liêng
nhất của tâm hồn dân tộc. Hồn thơ Nguyễn Bính là hồn ca dao. Cái tôi ấy
rung cảm trước cảnh sắc làng quê :
Mùa xuân là cả một mùa xanh
Giời ở trên cao, lá ở cành
(Mùa xuân xanh)
Chưa hè trời đã nắng chang chang
Tu hú vừa kêu, vải đã vàng
Hoa gạo tàn đi cho sắc đỏ
Nhập vào sắc đỏ của hoa xoan
(Cuối tháng ba)
Thong thả nhân gian nghỉ việc đồng
Lúa thì con gái mượt như nhung
Đầy vườn hoa bưởi hoa cam rụng
Ngào ngạt hương bay bướm vẽ vòng
(Xuân về)
4.4. Ngôn ngữ thơ mới dân gian:
- Thành ngữ, tục ngữ, cách nói lối diễn ý dân gian: dầu
hao bấc gầy, chín nhớ mười mong, cách trở đò giang, thôn Đoài, thôn
Đông, thuyền bến, miếng giầu, hàng cau, vườn sông, Một nắng hai sương,
bảy nổi ba chìm, một lầm hai lỡ, đi gió về mưa,…
- Hình thành những nhóm từ hình ảnh dân gian theo lối đan chữ : nhạt thắm phai đào, trăm cay nghìn đắng, pháo đỏ rượu hồng, khóac áo phong trần, sương gió đường xa, ...
- Các đại từ : ta, tôi, anh, mình, ... tạo ra vùng mờ của ngữ nghĩa hết sức tự nhiên, khó xác định đối tượng cụ thể nhưng vận vào ai cũng hợp tình hợp lí cả :
Tương tư thức mấy đêm rồi
Biết cho ai, hỏi ai người biết cho ?
(Tương tư)
- Ngôn từ diễn tả đơn vị thơì gian theo lối nói của người dân quê : tầm tầm (Tầm tầm trời xứ đổ mưa), eo óc (Thôn gà eo óc ngoài xa vắng), cỏ áy bờ (Cây rủ vườn xiêu cỏ áy bờ), năm tao bảy tuyết (Năm tao bảy tuyết anh hò hẹn), một thôi đê (Thôn Đoài cách một thôi đê), cạn ngày (Mẹ bảo : Mùa xuân đã cạn ngày),…
4.5. Hiện tượng lặp đi lặp lại: “Khoa cử”.
- Bài thơ "Thời trước", "Quan trạng", "Giấc mơ anh lái đò",...
Tưng bừng vua mở khoa thi
Anh đỗ quan trạng, vinh quy về làng
Võng anh đi trước võng nàng
Cả hai chiếc võng cùng sang một đò
- Trong thơ nói về tình yêu của chính mình cũng lặp lại “Khoa cử”.
Cầu cong như chiếc lược ngà
Sông dài mái tóc cung nga buông hờ
Đôi bờ đối cánh tay vua
Cung nga úp mặt làm thơ thất tình.
4. 6. Tính hiện đại hay sự mở rộng thi pháp thơ dân gian.
Nguyễn Bính là một nhà thơ lãng mạn có cá tính riêng, dấu ấn riêng, thi
pháp riêng. Thơ ông có sự mở rộng thi pháp thơ dân gian, nhưng vẫn mang
đặc trưng thi pháp thơ mới, tư duy thơ mới. Những biểu hiện :
- Thân phận người phụ nữ :
Em ơi em ở lại nhà
Vườn dâu em đốn mẹ già em thương
Mẹ già một nắng hai sương
Chị đi một bước trăm đường xót xa
(Lỡ bước sang ngang – 1939)
- Sự mở rộng không gian và thời gian :
- Lợn không nuôi đặc ao bèo
Giầu không dây chẳng buồn leo vào dàn
Giếng khơi mưa ngập nước tràn
Ba gian đầy cả ba gian nắng chiều
(Qua nhà – 1936)
- Ví chăng nhớ có như tơ nhỉ
Em thử quay xem được mấy vòng
Ví chằng nhớ có như vừng nhỉ
Em thử đong xem được mấy thưng
(Nhớ - 1936)
- Đểm tàn chẳng có chiêm bao
Đêm tàn có mấy chum sao vẫn tàn
Chén sầu đổ ướt trường giang
Canh gà bên nớ giăng sang bên này
(Một con sông lạnh – 1941)
- Chừ đây bên nớ bên tê
Sương thu xuống gió thu về bồng bênh
Đàn ai đứt một dây tình
Nổi lên một tiếng buồn tênh rồi chìm
(Lửa đò – 1941)
(Lửa đò – 1941)
5. Tóm lại, Nguyễn Bính là nhà thơ của tình quê, hồn quê và cũng là
nhà thơ của chân quê. Trong thơ, Nguyễn Bính sử dụng điêu luyện thể thơ
lục bát thông qua một số hình ảnh quen thuộc gợi lên tình cảm với quê
hương; cách ví von so sánh của thơ ông gần với ca dao; cảm xúc trữ tình
nhuần nhuyễn trong nghệ thuật diễn đạt.
Nếu đặt thơ Nguyễn Bính giữa dòng “thơ quê”, thơ viết dưới ánh sáng của
đề tài thôn dã, cánh hoa thơ ông vẫn tư tin với sắc màu riêng của mình.
Bởi trong những áng hoa thơ đó, nếu Anh Thơ xúc cảm dịu dàng trước cảnh
quê, Đoàn Văn Cừ tái hiện sinh động nếp quê, Bàng Bá Lân rung động về
đời quê; thì Nguyễn Bính, dù viết về những cảnh sắc hương thôn hay những
mảnh đời lở dở, về những mối duyên quê hay những tấm tình quê, về cố
nhân hay cố hương, về quê mình hay quê người,… ở đâu ông cũng làm dậy
lên được cái hồn quê. Hồn quê ấy là sự hoà điệu của nhiều yếu tố nội
dung và hình thức, nhưng nổi bật là giọng điệu quê, lối nói quê và lời
quê.
Trong các nhà thơ mới, Nguyễn Bính đã đem hồn thơ của mình mà giao hoà
cùng hồn quê và hồn dân tộc. Thơ ông có sự tích hợp và phát huy độc đáo
những truyền thống thơ ca, văn hoá dân gian với tiếng thơ hiện đại, đã
tạo ra một phong cách thơ không trùng lặp với ai.
_________________________________
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét