I. Nguyễn Công Hoan, một cái nhìn lướt.
A. Sự nghiệp văn chương:
Nguyễn Công Hoan: “Tôi đặt nhiều công phu vào việc viết truyện ngắn, chứ không phải vào việc viết truyện dài. Tôi chỉ viết truyện dài khi nào tôi lười đi tìm đề tài để viết truyện ngắn” (Đời viết văn của tôi).
Nguyễn công Hoan sáng tác truyện ngắn vào những năm 20 của thế kỷ XX, nhưng tài năng của ông nở rộ từ năm 1933 với “Kép Tư Bền”. Tài năng truyện ngắn của ông phát triển mạnh vào thời kỳ Mặt trận dân chủ (1936-1939). Từ khỏang 1940 trở đi, Nguyễn Công Hoan có sự khủng hoảng về tư tưởng, dao động về quan điểm nghệ thuật. Ông sáng tác những truyện dài lãng mạn.
A. Sự nghiệp văn chương:
Nguyễn Công Hoan: “Tôi đặt nhiều công phu vào việc viết truyện ngắn, chứ không phải vào việc viết truyện dài. Tôi chỉ viết truyện dài khi nào tôi lười đi tìm đề tài để viết truyện ngắn” (Đời viết văn của tôi).
Nguyễn công Hoan sáng tác truyện ngắn vào những năm 20 của thế kỷ XX, nhưng tài năng của ông nở rộ từ năm 1933 với “Kép Tư Bền”. Tài năng truyện ngắn của ông phát triển mạnh vào thời kỳ Mặt trận dân chủ (1936-1939). Từ khỏang 1940 trở đi, Nguyễn Công Hoan có sự khủng hoảng về tư tưởng, dao động về quan điểm nghệ thuật. Ông sáng tác những truyện dài lãng mạn.
B. Nguyễn Công Hoan, từ góc nhìn lịch sử văn học.
1. Trần Học Đình: “Cái biệt tài viết tiểu thuyết của Nguyễn Công Hoan chỉ ở trong những truyện ngắn”, nhà văn “ưa tả, ưa vẽ cái xấu xa, hèn mạt đê tiện của cả một hạng người xưa nay vẫn đeo cái mặt nạ giả dối”.
2. Hải Triều: “Cái chủ trương nghệ thuật vị dân sinh của tôi ngày nay đã biểu hiện bằng những bức tranh rất linh hoạt dưới ngọn bút tài tình của văn sĩ Nguyễn Công Hoan... về phương diện tả thực, có thể nói tác giả đã đạt đến mục đích một phần lớn rồi vậy. Nhưng về phương diện xã hội thì chưa thật toàn diện”.
3. Trương Chính: “Nguyễn Công Hoan Là một anh pha trò và một anh pha trò đậm. Anh pha trò ấy đã hiểu nghề, đã thành thạo lắm” (Dưới mắt tôi).
4. Vũ Ngọc Phan: “Nguyễn Công Hoan sở trường truyện ngắn hơn truyện dài. Ở các truyện ngắn, ông tỏ ra một người kể chuyện rất có duyên. Phần nhiều truyện của ông linh động lại có nhiều cái bất ngờ, làm cho người đọc khoái trá vô cùng”, “Chỉ trong phạm vi tả chân và trào lộng, cây bút Nguyễn Công Hoan mới có thể vững vàng, còn ngoài phạm vi ấy, tôi e rằng nó sẽ lung lay” (Nhà văn hiện đại).
5. Lê Thị Đức Hạnh: “... Nguyễn Công Hoan cũng đã sống ở nông thôn trong nhiều năm, ông chịu khó quan sát nên có nhiều hiểu biết về nông thôn. Ông sáng tác nhiều truyện về đề tài này” (Vấn đề nông dân và cuộc sống nông thôn trong truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan trước cách mạng, Tạp chí Văn học, só 6/1970)
6. Huệ Chi và Phong Lê: “Cái cười của Nguyễn Công Hoan là một phương tiện đả kích..có sức công phá thật mạnh mẽ. Đôi lúc ta còn bất chợt thấy trong cái cười hài hước của ông một chút ngậm ngùi, một tình thương có thể nói là kín đáo” (Lời giới thiệu tuyển tập Nguyễn Công Hoan).
7. Nguyễn Đăng Mạnh: Nguyễn Công Hoan “thích bốp chát, đánh vỗ ngay vào mặt đối phương. Tiếng cười đả kích của Nguyễn Công Hoan thường là những đòn đơn giản mà ác liệt”, “Mỗi truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan có một chủ đề rõ ràng, đơn giản... gắn được với một mâu thuẫn trào phúng và một tình thế hài hước”, “Nguyễn Công Hoan là nhà văn kể chuyện có duyên, có sức hấp dẫn, đối thoại có kịch tính, giọng kể tự nhiên hoạt bát... biết dùng những chi tiết đánh lạc hướng độc giả khỏi cái đích câu chuyện, nên tạo được cái gây cười trực tiếp” (Nhà văn tư tưởng và phong cách).
8. Phan Cự Đệ: “Nguyễn Công Hoan là người có phong cách truyện ngắn độc đáo...” (Lời giới thiệu tuyển tập Nguyễn Công Hoan)
9, Nguyễn Hoành Khung: “Truyện ngắn trào phúng của Nguyễn Công Hoan là hiện tượng chưa có tới hai lần trong văn học Việt Nam” (Lời giới thiệu Truyện ngắn Việt Nam 1930-1945, tập I).
II. Phong cách nghệ thuật truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan.
1. Đời là một bi kịch.
1.1. Nguyễn Công Hoan sinh ra trong một gia đình quan lại nhà nho suy tàn vì sự đổi thay của chế độ. Từ quan điểm nhà nho thất thế, ông nhìn xã hội thực dân tư sản như một sân khấu hài kịch. Trong đó những kẻ đóng vài hề là bọn ông chủ, bà chủ. Bọn tay sai ; bọn thanh niên nam nữ hư hỏng phản đạo đức.
1.2. Dù vậy, Nguyễn Công Hoan vãn là một nhà văn của người nghèo, có tinh thần dân chủ, dân tộc. Ông là nhà văn ác cảm với bọn có tiền, có quyền trong xã hội thực dân. Ông căm ghét xã hội thực dân và cảm thấy bất lực khi bọn thực dân lên ngôi. Cái nhìn ấy khiến ông cảm nhận đời là một sân khấu hài kịch. Diễn viên chính là thực dân, quan lại mới, bọn tư sản, nhà giàu thành thị, cùng tay sai của chúng ở nông thôn. Đối với chúng, những gì thiêng liêng nhất đều trưở thành trò đùa, trò bịp, đều là diễn kịch trên khấu cuộc đời. Quan lại diễn trò công minh, công lý (Thật là phúc, Đồng hào có ma, Thịt người chết, Sáu mạng người,… Vợ chồng diễn trò tam tòng tứ đức (Xuất giá tòng phu, Nỗi vui sướng của thằng bé khốn nạn,…) Đàn bà diễn trò tiết hạnh (Thế là mợ nó đi Tây, ỏan tà roằn,…) Con cái diễn trò báo hiếu (Báo hiếu : trả nghĩa cha, Báo hiếu : trả nghĩa mẹ, …) Nhà nước diễn trò mị dân (Đào kép mới, Tinh thần thể dụ,…) Tát cả là sân khấu diễn trò làm nổi bật triếng cười căm uất cay đắng như muốn phủ nhận tất cả, tung hê tất cả.
1.3. Tiếng cười của Nguyễn Công Hoan chịu ảnh hưởng tiếng cười dân gian truyền thống, tiếng cười của chèo, tiếu lâm. Trạng Quỳnh,… thể hiện qua yếu tố tục, thái độ hạ bệ, san bằng tất cả, « bốp chát dánh vỗ mặt đối phương ». Ông tiếp thu nhiều chất bi quan hơn là chất lạc quan dân gian.
2. Mỗi truyện một tình huống trào phúng.
2.1. Mỗi truyện của Nguyễn Công Hoan là một màn hài kịch, một tình huống trào phúng. Nhìn chung, tình huống trào phúng trong truyện của ông là « tình huống lật tẩy mặt trái đời ».
2.2. Tuy vậy tùy theo đề tài mà tình huống trào phúng có sắc thái khác nhau. Kép Tư Bền : hiện tượng bên ngoài pha trò, cười cợt, nhưng bên trong tan nát ruột gan. Anh kép hát muốn khóc lại phải cười. Xuất giá tòng phu, hiện tượng bên ngoài là chồng dạy vợ đạo tòng phu, nhưng thực chất là phản lại đạo tòng phu. Người đàn bà trong câu chuyện bị đặt trong tình huống bị chồng cưỡng bức đi ngủ với quan trên để thực hiện « đức tam tòng ». Tinh thần thể dục, hiện tượng bên ngoài là chăm lo sức khỏe và sự giải trí cho dân ; nhưng thực chất là đem tại họa đến cho dân. Thật là phúc, hiện tượng bên ngoài là cửa quan nơi thực hiện công lý, nhưng thực chất quan là tai họa, hung thàn của dân. Đồng hào có ma, hiện tượng bên ngoài : quan là tôn nghiêm, cao cả, nhưng thực hất là ti tiện.
2.3. Nhìn chung, tình huống truyện của Nguyễn Công Hoan đơn giản những bất ngờ do tác giả khéo che đậy. Tình huống truyện truyện làm bật lên cảm hứng phê phán xã hội ở phương diện đạo đức. Cảm hứng chủ đạo của truyện ngắn trào phúng của Nguyễn Công Hoan là ở đấy.
3. Kết cấu đối lập.
3.1. Về mặt nội dung, truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan phần lớn chỉ có một bình diện nghĩa, nên hình tượng chỉ có một lớp hình tượng. Thế giới hình tượng trong tác phẩm của nhà văn được kết cấu trên nguyên tắc đối lập giữa các nhân vật và các sự cố.
3.2. Đối lập giữa các nhân vật.
- Ở những truyện có chủ đề phê phán xã hội, thường có kết cấu đối lập giữa hạng nhà giàu quyền thế với hạng người nghèo khổ lép vế (Đồng hào có ma, mất cái ví,…)
- Ở những truyện ngắn mang chủ đề đạo đức luân lý, quan hẹ luyến ái, hôn nhân gia đình ; kết cấu thường dựa trên sự đối lập giữa người già người trẻ, giữa nam và nữ (Thế là mợ nó đi Tây, Cô Kếu, Đàn bà là giống yếu,…).
3.3. Đối lập giữa các sự cố.
- Hiện tượng > < bản chất : Báo hiếu : trả nghĩa cha, Báo hiếu : trả nghĩa mẹ, Kép tư bền, Đào kép mới,…
- Bên ngoài chinh nghĩa > - Nguyên nhân tầm thường> < hậu quả nghiêm trọng : Thằng ăn cắp, …
- Hy vọng > < thất vọng : Ngựa người và người ngựa, Ngậm cười,…
- Phúc > < họa : Được chuyến khách, hé !...
4. Thế giới nhân vật.
4.1. Thế giới nhân vật của Nguyễn Công Hoan bao gồm những hạng người quen thuộc với hai môi trường sống : Cửa quan ở các phủ huyện, thành thị. Có lẽ do ấn tượng tuổi thơ mà tạo nên thế giới nhân vật ở hai môi trường sống này. Vì vậy, với các nhân vật ông quan bà quan, hương lý, chức dịch chiếm tỷ lệ lớn trong các truyện ngắn của nhà văn. Với các nhân vật này, ông chỉ cần phác qua một vài nét là tính cách hiện lên sinh động. Ví như Đàn bà là giống yếu, quan ông : « Quan ông vừa nói vừa lả lơi cười, rồi ôm chầm lấy quan bà : một con nhái bén bám vào một quả dưa chuột », quan bà : « Người ta tưởng chiếc bánh giầy đám cưới, ở giữa dặt một quả chuối ngự, và ngay đầu quả chuối nằm dài hai múi cà chua. Rồi khi hai múi cà chua tách ra để theo nhịp với cặp mắt híp, đưa quan ông vào chốn nát bàn, thì ai cũng phải thấy một cái hố sâu thăm thẳm, sâu như bụng dạ một người đàn bà ».
4.2. Nhìn chung, khắc họa hình tượng nhân vật không phải là điểm mạnh của Nguyễn Công Hoan, nhân vật của ông ít có chiều sâu nội tâm. Nhân vật của ông, chủ yếu là nhân vật phản diện thường có những nét tính cách sau. Bọn đàn ông nhà giàu, quyền lực : tham, ác, đê tiện, đểu cáng, trắng trợn ; bọn đà bà : dâm đãng và xảo quyệt. Tất nhiên các nét tính cách trên tùy nhân vật mà đậm nhạt khác nhau. Đồng hào có ma nổi bật là tham lam, đê tiện ; Thịt người chết nổi bật là bỉ ổi, độc ác ; Mất cái ví, xuất giá tòng phu nổi bật là đểu giả, đê tiện ;…
5. Nghệ thuật trần thuật và cái duyên mặn mà của Nguyễn Công Hoan.
5.1. Về mặt giọng điệu trần thuật, truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan đánh dấu một bước cách tân quan trọng. Giọng điệu trần thuật của ông đã đạt được sự phức điệu hóa. Ông thường kể theo nhiều quan điểm và giọng điệu khác nhau : quan điểm tác giả, quan điểm nhân vật, quan điểm tác giả xen lẫn với quan điểm nhân vật. Nhưng tất cả đều có một giọng điệu chung : giọng hài hước kiểu Nguyễn Công Hoan.
5.2. Đẩy mâu thuẫn trào phúng phát triển cao độ và kết thúc đột ngột.
5.2.1. Tiếng cười trào phúng thường khẩy ra từ một mâu thũan có tính hài hước nào đó, trong một tình huống trào phúng nào đó. Mâu thuẫn đầy rẫy trong thực tại ở nhiều dạng khác nhau, Nguyễn Công Hoan nhạy cảm phát hiện, gạt bỏ những gì không thĩh hợp sau đó phóng đại lên :
- Hai cái bụng : Cái bụng đau khổ của nhà nghèo được phóng đại cao độ đối lập với cái bụng tức anh ách « không chịu đói » của nhà giàu « chỉ thèm ăn được », trái với cái bụng lép kẹp « chỉ thèm được ăn » của người nghèo.
- Xuất giá tòng phu : Phóng đại cái vô lý và vô đạo. Chồng bắt quả tang vợ ngoại tình, nhưng chính ông ta bắt vợ đi ngoại tình,…
5.2.2. Để gây cười, truyện thường kết thúc đột ngột, truyện Nguyễn Công Hoan luôn có kết thúc đột ngột như thế.
- Oăn tà roằn : Tác giả để cô gái tính nết lăng nhăng, tằng tịu hết người này lại đến người khác, nhưng lúc nào cũng : « Tôi là con nhà thi lễ », « tôi đối với cậu rất chung tình » ; rút cục đẻ ra thằng bé : « nước da đen như cột nhà cháy… Nó là giống oẳn tà rroằn không biết chống gậy »
- Bộ ấm chén cổ: kể về một ông thích chơi đồ cổ, cuối truyện tác gải chỉ trích vào lũ con gái hư hỏng của ông ta bằng câu : « Duy chỉ có mấy cô con gái có thể ngờ là tân, còn thì tuốt tuột là cổ ».
- Đồng hào có ma : tác giả kết truyện : « Vẫn tự nhiên như không. Ông cúi xuống thò tay, nhặt đồng hào đôi sáng loáng,… rồi bỏ tọt vào túi ».
- Mất cái ví : « ông cháu quý hóa », « cốt làm thế để bận sau ông cậu đừng ra chơi nữa. Tốn kém lắm ! »
6. Thủ pháp che giấu hay đánh lạc hướng người đọc.
6.1. Giả định, suy đoán nhằm đánh lạc hướng. Cái ví ấy của ai : Các ông bà quý phái đang khiêu vũ, bỗng một ông mất ví. Ai cũng ngờ bọn đầy tớ. Hóa ra, chính họ ăn cáp của nhau.
6.2. Xây dựng nhân vật « ngớ ngẩn » để đánh lừa. Nỗi lòng tỏ cùng ai : Bà mẹ nhân vật « ngớ ngẩn » trước nỗi bùon của con gái yêu. Những phán đoán của bà về lý do gây ra nỗi buồn cho con khiến ta cũng ngớ ngẩn theo.
7. Đặc điểm ngôn ngữ trần thuật của Nguyễn Công Hoan.
7.1. Trong sáng, giản dị có tính chất bình dân. Văn chương Nguyễn Công Hoan trong sáng phát huy khả năng diễn đạt của tiếng nói dân tộc.
- Ngôn ngữ một bà nhà quê : « Thưa thầy, từ đây lên huyện những chín cây-lô-mếch, sợ nhà đi nắng thì cảm, rồi phải lại thì oan gia… » (Tinh thần thể dục).
- Ngôn ngữ lính tráng : « Nói nôm na, chú Ván-cách cũng muốn chim chị Tam đáo để. Có bận chú định ngồi trong mành mành, ví chị Tam một câu rõ hay. Giá chú biết làm thơ, làm văn thì hẳn đã nghĩ được một bài trường thiên rõ dài để tặng ! Khốn nhưng chú chỉ quen thói bóp ngực lần lưng dân, cho nên chỉ học mốt chim gái của bạn đồng nghiệp, thẳng như nòng súng, là giữ nón, chắn đường, hoặc nắm cổ tay mà bắt nói một câu :
- Van nhà, nhà buông em ra ! (Thật là phúc)
- Ngôn ngữ chị vú, con sen: “Lậy ông bà, chúng con có biết cái ví tiền của ông mặt ngang mũi dọc thế nào, thì chúng con cứ chết một đời cha ba đời con!” (Mất cái ví).
- Ngôn ngữ bà bán bún riêu: “Ba mươi sáu cái nõn nường! Mỗi bát mấy đồng xu của người ta đây! Thôi đi! Dơ!...” (Thằng ăn cắp).
- Ngôn ngữ kẻ ăn mày: “Giàu hai con mắt, đói hai bàn tay, con kêu van cửa ông cửa bà thí bỏ cho con bát cháo lưng hồ...” (Cái vốn sinh nhai).
7.2. Ngôn ngữ thân mật, suồng sã.
Bakthin: “Tất cả những gì nực cười đều gần gũi... Tiếng cười có một sức mạnh tuyệt vời kéo đối tượng lại gần, tiếng cười lôi đối tượng vào khu vực tiếp xúc thân mật đến thô bạo, ở đó có thể suồng sã sờ mó từ khắp phía...”.
- Văn của Nguyễn Công Hoan không là thứ văn đạo mạo, mà là văn lột trần tất cả tôn ti trật tự xã hội, không chừa một ai. Trong Bữa no... đòn: “Chẳng ai thương nó cả. Nó cũng là người. Duy chỉ khác mọi người là chẳng may nó bị tạo hóa ruồng bỏ, cho nên đói khát, phải ăn cắp giấm giúi để nuôi thân. Cái ấy cũng khác hẳn với người thường. Họ thừa, họ cứ đường hoàng ăn cắp”.
- Văn trần thuật của Nguyễn Công Hoan nhìn chung là những lời trò chuyện giữa tác giả, nhân vật và độc giả như những kẻ bằng vai phải lứa cùng đùa cợt bông phèng với nhau. “Một loạt truyện ngắn của ông viết vừa rồi về quan trưởng tôi có đọc hết. Tôi nhận thấy có truyện ông đã bịa thêm nhiều...” (Tôi tự tử). “Vì mới chết lần này là lần đầu, nên anh Xích chưa có lịch duyệt về khoản ấy. Thực vậy, nếu chết ở tỉnh, thì ai láu nên chọn vào đêm thứ sáu. Như thế, vợ con có vừa vặn thì giờ để cáo phó lên báo. Và chủ nhật, cất đám, có đủ các cụ, các quan, các ông, các bà, thân bằng cố hãu đi đưa đông. Ở nhà quê, nếu chết vì tai nạn, người khôn ngoan bao giờ cũng tránh những ngày chủ nhật hoặc ngày lễ, thì sự khám xét, tống táng mới mong chóng được. Nhưng khốn nỗi, xưa nay, không ai chết lần thứ hai để được bài học kinh nghiệm về cách chết. Vì vậy, vẫn có nhiều người chết một cách ngờ nghệch” (Thịt người chết). “Dạy học là một nghề khó nhọc. Dạy lớp Đồng ấu lại khó nhọc gấp mười. Trẻ con phần nhiều đãng trí, hay quên, có khi tay cầm quản bút, nhưng lại mách thầy là anh nào ăn cắp. Có khi lọ mực móc dây vào ngón tay, nhưng lúc hứng, cứ như thế, đưa cả lên đầu mà gãi! Lại có đứa thò lò mũi xanh. Có đứa mải chơi, đi “mô tô” ra quần lúc nào không biết. Quàn áo thì bẩn thỉu, hôi thối, đất cát, mồ hôi bê bết nhễ nhại, cáu ghét tầng tầng. Trong lớp thì hơi người tanh nồng lên. Không trách người Tây gọi lớp ấy là Ăng-phăng-tanh cũng phải” (Thầy cáu).
7.3. Ngôn ngữ giễu nhại. Lời văn trân thuật của Nguyễn Công Hoan luôn có giọng giễu nhại. Bằng biện pháp giễu nhại, tác giả hạ bệ tất cả những gì gọi là nghiêm trang, nghiêm túc; biến chúng thành trò cười với hình thức mô phỏng (hí phỏng) một cách hài hước lời nói, giọng điệu của những nhân vật nào đấy, hoặc phong cách ngôn ngữ của một tàng lớp xã hội nào đấy. Tả cái áo rách của thằng ăn cắp: “Cái áo dài vải Tây nay chỉ còn giữ được màu nước dưa, thì ở lưng, vai, tay, ngực bướp ra, mà năm khuy thì về hưu trí. Mỗi chỗ rách là kỉ niệm một trận đòn mê tơi...”. Tả con chó sủa: Tiên sinh xứ tự do ngôn luận oang oang... cứ diễn thuyết ràm rộ, hô hào dữ dội đến nỗi cả nhà mất ngủ”.
7.4. Chơi chữ.
- Chơi chữ trong cách đặt tên truyện. Hai thằng khốn nạn: Một người khốn nạn về vật chất (nghèo khổ) và một người khốn nạn về tinh thần, về cách sống (nhà giàu). Thế là mợ nó đi Tây: “đi Tây” vừa chỉ người Việt Nam sang du học bên Tây vừa chỉ sự ra di hẳn, cắt đứt hẳn. Xuất giá tòng phu: Dùng ngôn ngữ đạo lý để chỉ chuyện vô đạo: Tòng phu không phải là thủy chung với chồng mà theo mệnh lệnh chồng di ngủ với quan trên.
- Chơi chữ trong văn trần thuật: Tôi cực lực công kích sách vệ sinh đã dạy người ta ăn uống phải sạch sẽ, nếu ta muốn được khỏe mạnh béo tốt. Thuyết ấy sai. Trăm lần sai, nghìn lần sai vì tôi thấy sự thực ở đời, bao nhiêu những anh béo khỏe, đều là những anh thích ăn bẩn cả...” (Đồng hào có ma). Miêu tả cách ghẹo gái có tính chất lính tráng của một viên cơ. Lão khám một mụ buôn thuốc phiện lậu, thấy có mấy đồng trinh: “-À, con này gớm thật, mày vẫn còn trinh à?”.
HD-12/2007
1. Trần Học Đình: “Cái biệt tài viết tiểu thuyết của Nguyễn Công Hoan chỉ ở trong những truyện ngắn”, nhà văn “ưa tả, ưa vẽ cái xấu xa, hèn mạt đê tiện của cả một hạng người xưa nay vẫn đeo cái mặt nạ giả dối”.
2. Hải Triều: “Cái chủ trương nghệ thuật vị dân sinh của tôi ngày nay đã biểu hiện bằng những bức tranh rất linh hoạt dưới ngọn bút tài tình của văn sĩ Nguyễn Công Hoan... về phương diện tả thực, có thể nói tác giả đã đạt đến mục đích một phần lớn rồi vậy. Nhưng về phương diện xã hội thì chưa thật toàn diện”.
3. Trương Chính: “Nguyễn Công Hoan Là một anh pha trò và một anh pha trò đậm. Anh pha trò ấy đã hiểu nghề, đã thành thạo lắm” (Dưới mắt tôi).
4. Vũ Ngọc Phan: “Nguyễn Công Hoan sở trường truyện ngắn hơn truyện dài. Ở các truyện ngắn, ông tỏ ra một người kể chuyện rất có duyên. Phần nhiều truyện của ông linh động lại có nhiều cái bất ngờ, làm cho người đọc khoái trá vô cùng”, “Chỉ trong phạm vi tả chân và trào lộng, cây bút Nguyễn Công Hoan mới có thể vững vàng, còn ngoài phạm vi ấy, tôi e rằng nó sẽ lung lay” (Nhà văn hiện đại).
5. Lê Thị Đức Hạnh: “... Nguyễn Công Hoan cũng đã sống ở nông thôn trong nhiều năm, ông chịu khó quan sát nên có nhiều hiểu biết về nông thôn. Ông sáng tác nhiều truyện về đề tài này” (Vấn đề nông dân và cuộc sống nông thôn trong truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan trước cách mạng, Tạp chí Văn học, só 6/1970)
6. Huệ Chi và Phong Lê: “Cái cười của Nguyễn Công Hoan là một phương tiện đả kích..có sức công phá thật mạnh mẽ. Đôi lúc ta còn bất chợt thấy trong cái cười hài hước của ông một chút ngậm ngùi, một tình thương có thể nói là kín đáo” (Lời giới thiệu tuyển tập Nguyễn Công Hoan).
7. Nguyễn Đăng Mạnh: Nguyễn Công Hoan “thích bốp chát, đánh vỗ ngay vào mặt đối phương. Tiếng cười đả kích của Nguyễn Công Hoan thường là những đòn đơn giản mà ác liệt”, “Mỗi truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan có một chủ đề rõ ràng, đơn giản... gắn được với một mâu thuẫn trào phúng và một tình thế hài hước”, “Nguyễn Công Hoan là nhà văn kể chuyện có duyên, có sức hấp dẫn, đối thoại có kịch tính, giọng kể tự nhiên hoạt bát... biết dùng những chi tiết đánh lạc hướng độc giả khỏi cái đích câu chuyện, nên tạo được cái gây cười trực tiếp” (Nhà văn tư tưởng và phong cách).
8. Phan Cự Đệ: “Nguyễn Công Hoan là người có phong cách truyện ngắn độc đáo...” (Lời giới thiệu tuyển tập Nguyễn Công Hoan)
9, Nguyễn Hoành Khung: “Truyện ngắn trào phúng của Nguyễn Công Hoan là hiện tượng chưa có tới hai lần trong văn học Việt Nam” (Lời giới thiệu Truyện ngắn Việt Nam 1930-1945, tập I).
II. Phong cách nghệ thuật truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan.
1. Đời là một bi kịch.
1.1. Nguyễn Công Hoan sinh ra trong một gia đình quan lại nhà nho suy tàn vì sự đổi thay của chế độ. Từ quan điểm nhà nho thất thế, ông nhìn xã hội thực dân tư sản như một sân khấu hài kịch. Trong đó những kẻ đóng vài hề là bọn ông chủ, bà chủ. Bọn tay sai ; bọn thanh niên nam nữ hư hỏng phản đạo đức.
1.2. Dù vậy, Nguyễn Công Hoan vãn là một nhà văn của người nghèo, có tinh thần dân chủ, dân tộc. Ông là nhà văn ác cảm với bọn có tiền, có quyền trong xã hội thực dân. Ông căm ghét xã hội thực dân và cảm thấy bất lực khi bọn thực dân lên ngôi. Cái nhìn ấy khiến ông cảm nhận đời là một sân khấu hài kịch. Diễn viên chính là thực dân, quan lại mới, bọn tư sản, nhà giàu thành thị, cùng tay sai của chúng ở nông thôn. Đối với chúng, những gì thiêng liêng nhất đều trưở thành trò đùa, trò bịp, đều là diễn kịch trên khấu cuộc đời. Quan lại diễn trò công minh, công lý (Thật là phúc, Đồng hào có ma, Thịt người chết, Sáu mạng người,… Vợ chồng diễn trò tam tòng tứ đức (Xuất giá tòng phu, Nỗi vui sướng của thằng bé khốn nạn,…) Đàn bà diễn trò tiết hạnh (Thế là mợ nó đi Tây, ỏan tà roằn,…) Con cái diễn trò báo hiếu (Báo hiếu : trả nghĩa cha, Báo hiếu : trả nghĩa mẹ, …) Nhà nước diễn trò mị dân (Đào kép mới, Tinh thần thể dụ,…) Tát cả là sân khấu diễn trò làm nổi bật triếng cười căm uất cay đắng như muốn phủ nhận tất cả, tung hê tất cả.
1.3. Tiếng cười của Nguyễn Công Hoan chịu ảnh hưởng tiếng cười dân gian truyền thống, tiếng cười của chèo, tiếu lâm. Trạng Quỳnh,… thể hiện qua yếu tố tục, thái độ hạ bệ, san bằng tất cả, « bốp chát dánh vỗ mặt đối phương ». Ông tiếp thu nhiều chất bi quan hơn là chất lạc quan dân gian.
2. Mỗi truyện một tình huống trào phúng.
2.1. Mỗi truyện của Nguyễn Công Hoan là một màn hài kịch, một tình huống trào phúng. Nhìn chung, tình huống trào phúng trong truyện của ông là « tình huống lật tẩy mặt trái đời ».
2.2. Tuy vậy tùy theo đề tài mà tình huống trào phúng có sắc thái khác nhau. Kép Tư Bền : hiện tượng bên ngoài pha trò, cười cợt, nhưng bên trong tan nát ruột gan. Anh kép hát muốn khóc lại phải cười. Xuất giá tòng phu, hiện tượng bên ngoài là chồng dạy vợ đạo tòng phu, nhưng thực chất là phản lại đạo tòng phu. Người đàn bà trong câu chuyện bị đặt trong tình huống bị chồng cưỡng bức đi ngủ với quan trên để thực hiện « đức tam tòng ». Tinh thần thể dục, hiện tượng bên ngoài là chăm lo sức khỏe và sự giải trí cho dân ; nhưng thực chất là đem tại họa đến cho dân. Thật là phúc, hiện tượng bên ngoài là cửa quan nơi thực hiện công lý, nhưng thực chất quan là tai họa, hung thàn của dân. Đồng hào có ma, hiện tượng bên ngoài : quan là tôn nghiêm, cao cả, nhưng thực hất là ti tiện.
2.3. Nhìn chung, tình huống truyện của Nguyễn Công Hoan đơn giản những bất ngờ do tác giả khéo che đậy. Tình huống truyện truyện làm bật lên cảm hứng phê phán xã hội ở phương diện đạo đức. Cảm hứng chủ đạo của truyện ngắn trào phúng của Nguyễn Công Hoan là ở đấy.
3. Kết cấu đối lập.
3.1. Về mặt nội dung, truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan phần lớn chỉ có một bình diện nghĩa, nên hình tượng chỉ có một lớp hình tượng. Thế giới hình tượng trong tác phẩm của nhà văn được kết cấu trên nguyên tắc đối lập giữa các nhân vật và các sự cố.
3.2. Đối lập giữa các nhân vật.
- Ở những truyện có chủ đề phê phán xã hội, thường có kết cấu đối lập giữa hạng nhà giàu quyền thế với hạng người nghèo khổ lép vế (Đồng hào có ma, mất cái ví,…)
- Ở những truyện ngắn mang chủ đề đạo đức luân lý, quan hẹ luyến ái, hôn nhân gia đình ; kết cấu thường dựa trên sự đối lập giữa người già người trẻ, giữa nam và nữ (Thế là mợ nó đi Tây, Cô Kếu, Đàn bà là giống yếu,…).
3.3. Đối lập giữa các sự cố.
- Hiện tượng > < bản chất : Báo hiếu : trả nghĩa cha, Báo hiếu : trả nghĩa mẹ, Kép tư bền, Đào kép mới,…
- Bên ngoài chinh nghĩa > - Nguyên nhân tầm thường> < hậu quả nghiêm trọng : Thằng ăn cắp, …
- Hy vọng > < thất vọng : Ngựa người và người ngựa, Ngậm cười,…
- Phúc > < họa : Được chuyến khách, hé !...
4. Thế giới nhân vật.
4.1. Thế giới nhân vật của Nguyễn Công Hoan bao gồm những hạng người quen thuộc với hai môi trường sống : Cửa quan ở các phủ huyện, thành thị. Có lẽ do ấn tượng tuổi thơ mà tạo nên thế giới nhân vật ở hai môi trường sống này. Vì vậy, với các nhân vật ông quan bà quan, hương lý, chức dịch chiếm tỷ lệ lớn trong các truyện ngắn của nhà văn. Với các nhân vật này, ông chỉ cần phác qua một vài nét là tính cách hiện lên sinh động. Ví như Đàn bà là giống yếu, quan ông : « Quan ông vừa nói vừa lả lơi cười, rồi ôm chầm lấy quan bà : một con nhái bén bám vào một quả dưa chuột », quan bà : « Người ta tưởng chiếc bánh giầy đám cưới, ở giữa dặt một quả chuối ngự, và ngay đầu quả chuối nằm dài hai múi cà chua. Rồi khi hai múi cà chua tách ra để theo nhịp với cặp mắt híp, đưa quan ông vào chốn nát bàn, thì ai cũng phải thấy một cái hố sâu thăm thẳm, sâu như bụng dạ một người đàn bà ».
4.2. Nhìn chung, khắc họa hình tượng nhân vật không phải là điểm mạnh của Nguyễn Công Hoan, nhân vật của ông ít có chiều sâu nội tâm. Nhân vật của ông, chủ yếu là nhân vật phản diện thường có những nét tính cách sau. Bọn đàn ông nhà giàu, quyền lực : tham, ác, đê tiện, đểu cáng, trắng trợn ; bọn đà bà : dâm đãng và xảo quyệt. Tất nhiên các nét tính cách trên tùy nhân vật mà đậm nhạt khác nhau. Đồng hào có ma nổi bật là tham lam, đê tiện ; Thịt người chết nổi bật là bỉ ổi, độc ác ; Mất cái ví, xuất giá tòng phu nổi bật là đểu giả, đê tiện ;…
5. Nghệ thuật trần thuật và cái duyên mặn mà của Nguyễn Công Hoan.
5.1. Về mặt giọng điệu trần thuật, truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan đánh dấu một bước cách tân quan trọng. Giọng điệu trần thuật của ông đã đạt được sự phức điệu hóa. Ông thường kể theo nhiều quan điểm và giọng điệu khác nhau : quan điểm tác giả, quan điểm nhân vật, quan điểm tác giả xen lẫn với quan điểm nhân vật. Nhưng tất cả đều có một giọng điệu chung : giọng hài hước kiểu Nguyễn Công Hoan.
5.2. Đẩy mâu thuẫn trào phúng phát triển cao độ và kết thúc đột ngột.
5.2.1. Tiếng cười trào phúng thường khẩy ra từ một mâu thũan có tính hài hước nào đó, trong một tình huống trào phúng nào đó. Mâu thuẫn đầy rẫy trong thực tại ở nhiều dạng khác nhau, Nguyễn Công Hoan nhạy cảm phát hiện, gạt bỏ những gì không thĩh hợp sau đó phóng đại lên :
- Hai cái bụng : Cái bụng đau khổ của nhà nghèo được phóng đại cao độ đối lập với cái bụng tức anh ách « không chịu đói » của nhà giàu « chỉ thèm ăn được », trái với cái bụng lép kẹp « chỉ thèm được ăn » của người nghèo.
- Xuất giá tòng phu : Phóng đại cái vô lý và vô đạo. Chồng bắt quả tang vợ ngoại tình, nhưng chính ông ta bắt vợ đi ngoại tình,…
5.2.2. Để gây cười, truyện thường kết thúc đột ngột, truyện Nguyễn Công Hoan luôn có kết thúc đột ngột như thế.
- Oăn tà roằn : Tác giả để cô gái tính nết lăng nhăng, tằng tịu hết người này lại đến người khác, nhưng lúc nào cũng : « Tôi là con nhà thi lễ », « tôi đối với cậu rất chung tình » ; rút cục đẻ ra thằng bé : « nước da đen như cột nhà cháy… Nó là giống oẳn tà rroằn không biết chống gậy »
- Bộ ấm chén cổ: kể về một ông thích chơi đồ cổ, cuối truyện tác gải chỉ trích vào lũ con gái hư hỏng của ông ta bằng câu : « Duy chỉ có mấy cô con gái có thể ngờ là tân, còn thì tuốt tuột là cổ ».
- Đồng hào có ma : tác giả kết truyện : « Vẫn tự nhiên như không. Ông cúi xuống thò tay, nhặt đồng hào đôi sáng loáng,… rồi bỏ tọt vào túi ».
- Mất cái ví : « ông cháu quý hóa », « cốt làm thế để bận sau ông cậu đừng ra chơi nữa. Tốn kém lắm ! »
6. Thủ pháp che giấu hay đánh lạc hướng người đọc.
6.1. Giả định, suy đoán nhằm đánh lạc hướng. Cái ví ấy của ai : Các ông bà quý phái đang khiêu vũ, bỗng một ông mất ví. Ai cũng ngờ bọn đầy tớ. Hóa ra, chính họ ăn cáp của nhau.
6.2. Xây dựng nhân vật « ngớ ngẩn » để đánh lừa. Nỗi lòng tỏ cùng ai : Bà mẹ nhân vật « ngớ ngẩn » trước nỗi bùon của con gái yêu. Những phán đoán của bà về lý do gây ra nỗi buồn cho con khiến ta cũng ngớ ngẩn theo.
7. Đặc điểm ngôn ngữ trần thuật của Nguyễn Công Hoan.
7.1. Trong sáng, giản dị có tính chất bình dân. Văn chương Nguyễn Công Hoan trong sáng phát huy khả năng diễn đạt của tiếng nói dân tộc.
- Ngôn ngữ một bà nhà quê : « Thưa thầy, từ đây lên huyện những chín cây-lô-mếch, sợ nhà đi nắng thì cảm, rồi phải lại thì oan gia… » (Tinh thần thể dục).
- Ngôn ngữ lính tráng : « Nói nôm na, chú Ván-cách cũng muốn chim chị Tam đáo để. Có bận chú định ngồi trong mành mành, ví chị Tam một câu rõ hay. Giá chú biết làm thơ, làm văn thì hẳn đã nghĩ được một bài trường thiên rõ dài để tặng ! Khốn nhưng chú chỉ quen thói bóp ngực lần lưng dân, cho nên chỉ học mốt chim gái của bạn đồng nghiệp, thẳng như nòng súng, là giữ nón, chắn đường, hoặc nắm cổ tay mà bắt nói một câu :
- Van nhà, nhà buông em ra ! (Thật là phúc)
- Ngôn ngữ chị vú, con sen: “Lậy ông bà, chúng con có biết cái ví tiền của ông mặt ngang mũi dọc thế nào, thì chúng con cứ chết một đời cha ba đời con!” (Mất cái ví).
- Ngôn ngữ bà bán bún riêu: “Ba mươi sáu cái nõn nường! Mỗi bát mấy đồng xu của người ta đây! Thôi đi! Dơ!...” (Thằng ăn cắp).
- Ngôn ngữ kẻ ăn mày: “Giàu hai con mắt, đói hai bàn tay, con kêu van cửa ông cửa bà thí bỏ cho con bát cháo lưng hồ...” (Cái vốn sinh nhai).
7.2. Ngôn ngữ thân mật, suồng sã.
Bakthin: “Tất cả những gì nực cười đều gần gũi... Tiếng cười có một sức mạnh tuyệt vời kéo đối tượng lại gần, tiếng cười lôi đối tượng vào khu vực tiếp xúc thân mật đến thô bạo, ở đó có thể suồng sã sờ mó từ khắp phía...”.
- Văn của Nguyễn Công Hoan không là thứ văn đạo mạo, mà là văn lột trần tất cả tôn ti trật tự xã hội, không chừa một ai. Trong Bữa no... đòn: “Chẳng ai thương nó cả. Nó cũng là người. Duy chỉ khác mọi người là chẳng may nó bị tạo hóa ruồng bỏ, cho nên đói khát, phải ăn cắp giấm giúi để nuôi thân. Cái ấy cũng khác hẳn với người thường. Họ thừa, họ cứ đường hoàng ăn cắp”.
- Văn trần thuật của Nguyễn Công Hoan nhìn chung là những lời trò chuyện giữa tác giả, nhân vật và độc giả như những kẻ bằng vai phải lứa cùng đùa cợt bông phèng với nhau. “Một loạt truyện ngắn của ông viết vừa rồi về quan trưởng tôi có đọc hết. Tôi nhận thấy có truyện ông đã bịa thêm nhiều...” (Tôi tự tử). “Vì mới chết lần này là lần đầu, nên anh Xích chưa có lịch duyệt về khoản ấy. Thực vậy, nếu chết ở tỉnh, thì ai láu nên chọn vào đêm thứ sáu. Như thế, vợ con có vừa vặn thì giờ để cáo phó lên báo. Và chủ nhật, cất đám, có đủ các cụ, các quan, các ông, các bà, thân bằng cố hãu đi đưa đông. Ở nhà quê, nếu chết vì tai nạn, người khôn ngoan bao giờ cũng tránh những ngày chủ nhật hoặc ngày lễ, thì sự khám xét, tống táng mới mong chóng được. Nhưng khốn nỗi, xưa nay, không ai chết lần thứ hai để được bài học kinh nghiệm về cách chết. Vì vậy, vẫn có nhiều người chết một cách ngờ nghệch” (Thịt người chết). “Dạy học là một nghề khó nhọc. Dạy lớp Đồng ấu lại khó nhọc gấp mười. Trẻ con phần nhiều đãng trí, hay quên, có khi tay cầm quản bút, nhưng lại mách thầy là anh nào ăn cắp. Có khi lọ mực móc dây vào ngón tay, nhưng lúc hứng, cứ như thế, đưa cả lên đầu mà gãi! Lại có đứa thò lò mũi xanh. Có đứa mải chơi, đi “mô tô” ra quần lúc nào không biết. Quàn áo thì bẩn thỉu, hôi thối, đất cát, mồ hôi bê bết nhễ nhại, cáu ghét tầng tầng. Trong lớp thì hơi người tanh nồng lên. Không trách người Tây gọi lớp ấy là Ăng-phăng-tanh cũng phải” (Thầy cáu).
7.3. Ngôn ngữ giễu nhại. Lời văn trân thuật của Nguyễn Công Hoan luôn có giọng giễu nhại. Bằng biện pháp giễu nhại, tác giả hạ bệ tất cả những gì gọi là nghiêm trang, nghiêm túc; biến chúng thành trò cười với hình thức mô phỏng (hí phỏng) một cách hài hước lời nói, giọng điệu của những nhân vật nào đấy, hoặc phong cách ngôn ngữ của một tàng lớp xã hội nào đấy. Tả cái áo rách của thằng ăn cắp: “Cái áo dài vải Tây nay chỉ còn giữ được màu nước dưa, thì ở lưng, vai, tay, ngực bướp ra, mà năm khuy thì về hưu trí. Mỗi chỗ rách là kỉ niệm một trận đòn mê tơi...”. Tả con chó sủa: Tiên sinh xứ tự do ngôn luận oang oang... cứ diễn thuyết ràm rộ, hô hào dữ dội đến nỗi cả nhà mất ngủ”.
7.4. Chơi chữ.
- Chơi chữ trong cách đặt tên truyện. Hai thằng khốn nạn: Một người khốn nạn về vật chất (nghèo khổ) và một người khốn nạn về tinh thần, về cách sống (nhà giàu). Thế là mợ nó đi Tây: “đi Tây” vừa chỉ người Việt Nam sang du học bên Tây vừa chỉ sự ra di hẳn, cắt đứt hẳn. Xuất giá tòng phu: Dùng ngôn ngữ đạo lý để chỉ chuyện vô đạo: Tòng phu không phải là thủy chung với chồng mà theo mệnh lệnh chồng di ngủ với quan trên.
- Chơi chữ trong văn trần thuật: Tôi cực lực công kích sách vệ sinh đã dạy người ta ăn uống phải sạch sẽ, nếu ta muốn được khỏe mạnh béo tốt. Thuyết ấy sai. Trăm lần sai, nghìn lần sai vì tôi thấy sự thực ở đời, bao nhiêu những anh béo khỏe, đều là những anh thích ăn bẩn cả...” (Đồng hào có ma). Miêu tả cách ghẹo gái có tính chất lính tráng của một viên cơ. Lão khám một mụ buôn thuốc phiện lậu, thấy có mấy đồng trinh: “-À, con này gớm thật, mày vẫn còn trinh à?”.
HD-12/2007
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét