Buổi
sáng. Sương giăng mắc khắp tám nẻo đất trời. Một mình, tôi đi
bộ thể dục, xuống xóm Họ Giáo qua đường Ngang rồi rẽ xóm Họ
Bùi. Một người phụ nữ ngược chiều, hình như cũng tha hương về
dự Lễ Khánh thành đình làng hay Lễ Việc Tiếu nhánh họ như
tôi. Tôi không nhìn rõ mặt, người phụ nữ ấy cũng chẳng để ý
đến tôi, cứ thản nhiên, im lặng đi thể dục. Tôi chẳng nghĩ ngợi
gì, lòng nhẹ tênh, cũng đi trong lặng lẽ.
Tuyệt vời biết bao, một sớm mai khi xuân còn ở lại với mùa.
Không gian làng quê thật yên tĩnh và thật mát mẻ, khác với
không gian đi bộ thể dục bên bờ sông Hàn, Đà Nẵng mà tôi vẫn
quen thuộc từng buổi sớm trong sinh hoạt đời thường. Tôi vừa đi
vừa nhìn quanh quất cho đến khi bắt gặp con đường tỉnh lộ số 49, con đường mà người dân quê tôi quen gọi là đường Quan. Lặng
yên đứng ngắm cảnh vật. Phía trước mặt tôi là cánh đồng làng,
chếch chếch một chút về bên trái là Bến Dừa, xa xa khuất sau
màn sương là Khút Đò Ngược, một khúc ngoặt chữ chi của dòng
sông Ô Lâu. Đây là quãng sông rất sâu, nước xoáy mạnh, nhanh,
chảy về phía phá Tam Giang, nên rất vất vả và nguy hiểm đối
với những con đò ngược nước, từ phá Tam Giang ngược lên Vân
Trình hay lên tận nguồn sông Thu Rơi. Người lái đò nào ngược
dòng khúc này, chỉ lơ là trong thoáng chốc hoặc không vững tay
chèo thì con thuyền sẽ “lặn” ngay xuống đáy sông làm bạn với
nghêu sò ốc hến. Chính quãng sông này đã nở rộ bao nhiêu câu
chuyện tráng sắc màu huyền thoại. Những câu chuyện này đã bám
vào tuổi thơ và hoan hỉ sống trong kí ức của tôi, cũng như
trong trí nhớ của bao nhiêu đứa con của làng đang sinh sống ở
phương xa. Không cần lục lọi trí nhớ, những câu chuyện có vẻ
hoang đường cứ lần lượt hiện về tươi rói trong tôi.
Vào những đêm trăng đẹp, trăng lụa là rải rắc ánh sáng óng
mềm soi tỏ khắp mặt sông, một đoàn thuyền rồng, sơn son thếp
vàng giăng đèn kết hoa buông chèo giữa dòng. Từ những con
thuyền đó, tiếng đàn sáo réo rắt cất lên và lan tỏa. Cả không
gian trăng đêm huyền diệu như ngậm đầy âm nhạc ngũ cung khiến
lòng người nao nao. Ai đã một lần chứng kiến cảnh tượng này
thì một đời không thể quên được và luôn sống trong cảm giác
mình đã và đang được sống giữa cõi thần tiên. Những người
lớn tuổi và bác tôi đã kể như thế. Thậm chí có người lớn
còn thêu dệt. Cứ mỗi lẫn trên khút có đàn hát dưới trăng như
thế đều có hai con rùa (có người bảo là trạnh) canh gác không
cho người trần làm kinh động đến thế giới hoan lạc của thần
tiên. Một hôm, có những người nông dân che trại trên cồn gần bến
sông để làm đồng, họ nghe dưới trăng, trên sông nước tiếng đàn
phách, tiếng sáo du dương trầm bổng đến mê hoặc lòng người, họ
đã lần theo những nhạc khúc đó và im lặng thưởng thức. Bỗng
một người trong bọn họ húng hắng ho. Nghe động cả đoàn thuyền
trên sông biến mất. Sáng ra, ở khút đò ngược có xác hai con
rùa nổi lên, tấp vào bờ.
Ngày thơ bé, cứ mỗi bận rảnh rang khi sắp xếp hàng hóa, tính
toan tiền nong một ngày chợ xong, bên mâm cơm dưới ánh đèn dầu
mờ tỏ, mẹ đã kể cho tôi nghe câu chuyện về người em trai của
mẹ, ông cậu ruột của tôi. Cậu tôi, theo lời kể vừa nuối tiếc
vừa yêu thương của mẹ tôi là một thanh niên rất đẹp trai, rất
phóng khoáng và đặc biệt có giọng hò đến mê hoặc lòng người.
Một đêm trăng vằng vặc, cậu chèo chiếc đò mà mọi người vừa
dở hết những bó lúa đi trả cho chủ đò. Cậu khoan thai chèo,
chiếc đò lặng lẽ, nhẹ nhàng lướt tới tưởng chừng không làm
vỡ ánh trăng soi trong nước. Qua khúc ngoặt linh thiêng – Khút Đò
Ngược này, bỗng trên sông nước vọng vang tiếng hò trêu ghẹo
trong trẻo của một cô gái, cậu tôi như mê mệt theo câu hò. Câu
hò lúc thì vút bay lên cao tan loãng vào bầu trời trong vắt
ánh trăng, lúc thì sà thấp xuống đùa giỡn, tình tự với nước
sông dập dờn. Ý tứ câu hò có gì như e ấp gọi mời giao duyên,
như suồng sã phong tình mà vẫn kín đáo. Cậu tôi như bị ma lực
của tiếng hò hút lấy làm mụ mị đi. Cậu không thể nén lòng.
Cậu ngừng chèo nhìn trời đất mông lung rồi cất tiếng hò đáp
lại. Người trên thuyền, người không rõ bóng dáng trên sông nước
cứ thế hò đối đáp rất xứng hợp. Cả hai sinh ra như là một
cặp đôi hò đối đáp, cất lên những câu hò trữ tình luyến níu
quyện chặt vào nhau. Mẹ tôi ngừng một lúc, rồi cam đoan, tiếng
hò của cậu tôi và cô gái vô hình trên sông Ô Lâu, kết dính hơn
cả sam nữa. Tôi từng nghe “quấn chặt như sam”, dù không biết
đúng sai thế nào, nhưng tôi tin điều mẹ tôi nói về cặp đôi
tiếng hò đối đáp ấy là đúng. Bởi sau cái đêm ấy, cậu tôi về
bỏ cơm đắp chiếu nằm một mình trên bộ phản. Rồi cậu ốm liệt
giường, thuốc thang, đồng bóng gì cũng không thuyên giảm. Cậu
đã ra đi về bên kia cuộc đời mãi mãi ở cái tuổi hai mươi.
Người ta nói cậu bị vương hay bị người âm yêu thương rồi bắt đi
gì gì đó, thuở ấy tôi chả biết thế nào nhưng câu chuyện về
cậu đã ám ảnh tôi, khiến tôi càng thương yêu và tự hào về một
người cậu mà tôi chưa hề biết mặt, chỉ biết cậu với một
“nấm cỏ khâu xanh rì”!
Cái Khút Đò Ngược ấy, tôi cũng từng nghe kể rằng, ngày xửa
ngày xưa khi làng mới dựng, có một ông thầy địa lí từ phương
bắc ngang qua. Ông ta sững sờ đứng ngắm thế đất rồi nói với
các bác trưởng tộc. Làng này nằm trong thế đất rồng ẩn. Cái
đầu rồng là đất làng. Hai con mắt là hai bàu, cái miệng rồng
là cái Khút Đò Ngược ngoài kia. Theo lời thầy địa lí, hai con
mắt rồng, con mắt phải là bàu Đán, con mắt trái là bàu Môn.
Bàu đáng nằm trên đường cấy giữa làng và rú cát thuộc ngụ
Nhứt Tây. Đây là cái bàu có cây cối rậm rạp, cỏ mọc từng
tảng lớn nổi trên mặt hồ mà thuở nhỏ tôi cùng các bạn chăn
trâu nghịch ngợm đứng lên trên rồi chèo như một chiếc bè. Người
ta nói bàu này có tính chất nguyên sinh, cung cấp nước cho các
ruộng cạn nằm giữa đường Quan và đường Ngang (thường gọi là
trưa). Bàu môn thì nằm ở Nhứt Đông. Bàu cũng rất rộng cung cấp
nước cho ruộng làng. Thế đất làng như thế nên con cháu trong
làng đời đời phát triển thành đạt trong mọi lĩnh vực. Lúc
còn nhỏ, tôi không hiểu, nhưng rồi những năm ở Đại học Sư phạm
Huế, tôi được chứng thực về điều đó. Làng tôi là một làng
nghề - nghề làm nữ trang kim hoàn, mà ông Tổ là Ngài Cao Đình
Độ. Bao thế hệ thợ kim hoàn truyền nghề cho nhau và đã phát
đạt từ trong nước cho đến hải ngoại. Rồi trên con đường khoa
cử, giúp nước có Tiến sỹ Nguyễn Thanh Oai, Hoàng Giáp Trần
Dĩnh Sỹ. Người nối tiếp tư tưởng duy tân đất nước của Nguyễn
Trường Tộ có Nguyễn Lộ Trạch với “Thời vụ sách thượng”,
“Thời vụ sách hạ”,… Từ đó giúp tôi hiểu vì sao, làng tôi có
Văn chỉ (người quê tôi vẫn gọi là Văn thánh) thờ Đức Khổng Tử
và bảy mươi hai học trò của Ngài. Văn chỉ hiện nay vẫn còn ở
xóm chùa cũ. Người cùng Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng xây
dựng phong trào Duy Tân là Hồ Tá Bang, ông đã lập trường tư
thục Dục Thanh mở mang dân trí cho thanh niên để đổi mới, làm
mới đất nước. Rồi Bác sĩ Hồ Tá Khanh (tôi nghe ông có bằng
Thạc sĩ mà Thạc sĩ y khoa ở Pháp thời đó là cao hơn Tiến sĩ
?) tốt nghiệp y khoa ở Pháp, giữ chức vụ Bộ trưởng Y tế trong
Chính phủ Trần Trọng Kim,… Thời hiện đại có rất nhiều quan
chức, có rất nhiều người đỗ đạt càng tô điểm thêm vẻ đẹp, bề
dày văn hóa của làng. Tôi không nắm cụ thể nên không ghi ra đây,
nhưng số người có học vị Tiến sĩ, Thạc sĩ mà tôi biết cũng
nhiều hơn số ngón của hai bàn tay tôi.
Làng văn hóa với thế đất đầu rồng, tuyệt vời biết bao. Nhưng
sau năm 1975, người ta đã lấp bàu Đán và bàu Môn vì lí do đơn
giản có thêm đất canh tác. Thêm một vài mẫu đất có cứu đói,
có làm giàu quê tôi không, có giúp đất nước phát triển không,
tôi nghĩ là không. Có lẽ người ta trọng nông, trọng lúa gạo hơn
văn hóa làng, hơn truyền thống tốt đẹp của làng. Có lẽ người
ta không hiểu một điều giản dị : Còn truyền thống là còn dân
tộc. Dân tộc còn một khi văn hóa còn. Nghĩ
cũng lạ, ngày xưa là thế còn ngày nay lại lấp ruộng để bán
đất cho kẻ này làm nhà kẻ kia làm "Siêu thị". Cứ cái đà này
còn đâu nền "Văn minh lúa nước" của quê tôi, của Việt Nam. Nghĩ
mà buồn. Đời phức tạp và lắm mâu thuẫn thật!
Trời đã sáng. Tiếng trống ngoài đình vang lên dóng dã gọi
mọi người ra đình để làm lễ khánh thành. Tôi như tỉnh giấc mơ.
Quay lại, tôi vội đi nhanh, ngược lên xóm Bùi. Thế nhưng trong
tôi hình như vẫn còn váng vất một điều gì. Hình như là tình
quê.
Kế Môn, 4 - 3 - 2012
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét