I. Vài nét về tiểu sử và sự nghiệp văn chương:
1. Tên là Bùi Tằng Việt, bút danh: Hoàng Cầm (tên một vị thuốc đắng). Sinh năm 1922 tại thôn Lạc Thổ, xã Song Hồ, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh (nay là Hà Bắc) trong một gia đình nhà nho nghèo.
2. Tác phẩm chính:
a. Kịch thơ: Kiều Loan (1942), Hận Nam Quan (1944), Lên đường (1944), Tiếng hát Trương
Chi (1957).
b. Thơ: Bên kia sông Đuống (tập thơ – 1956), Tiếng hát quan họ (trường ca – 1956), Mưa Thuận Thành (1991).
c. Truyện thơ: Men đá vàng (1989).
II. Con người thơ:
1. Hoàng
Cầm, con người thơ ấy không hề bước ra khỏi không gian tinh thần Kinh
Bắc. Hồn thơ ông mãi lượn bay theo giọng hát quan họ, những làn điệu dân
ca phong phú, tài hoa và đậm đà chất trữ tình của vùng quê Thuận Thành.
Dù ông nhận ra và khẩn cầu:
Một lời quan họ bay lên dốc
Xin chớ dìu nhau xuống vực sâu
Trong rất nhiều bài thơ ông luôn dạo khúc mạch đầu bằng sự hoài niệm Kinh Bắc:
Cúi lạy mẹ con trở về Kinh Bắc
Chiều xưa giẻ quạt voi lồng
Thân cau cụt vẫy đuôi mèo trắng mốc
Chuồn chuồn khiêng nắng sang sông.
(Đêm Thổ)
Về Kinh Bắc phải đâu con nghẹ khóc
Con không cười
Con thoảng nhớ thoảng quên
(Đêm Kim)
Về Kinh Bắc phải đâu con nhắm mắt
Gài mảnh gương giàn thiên lí đợi tua rua
(Đêm Thuỷ)
Về Kinh Bắc tìm chơi đàn kiến lửa
Ngón tay di sợi chỉ nâu
(Đêm Hoả)
Về Kinh Bắc phải đâu con hé miệng
Khế chua vôi bột lồng tay
(Đêm mộc)
“Sau này, qua bao nơi, nếm trải bao mưa nắng thăng trầm, ông vẫn đau
đáu khôn nguôi về mảnh đất nơi mình cất tiếng khóc, tiếng cười đầu tiên.
Nỗi niềm ấy ông kí thác vào Thơ. Và chỉ có Thơ thôi”. (Lời nói đầu, tập
thơ "Bên kia sông Đuống", Nxb Văn hoá, Hà nội, 1993, tr. 7).
Chính quê hương giàu truyền thống văn hoá ấy đã hàm dưỡng, hun đúc nên
con người thơ của ông. Ông tự trưng ra con người thơ của mình trong bài
“Tôi người làng quan họ”:
Tôi người làng quan họ
Quê mẹ bên này sông
Cách quê cha một dòng
nước trắng.
Mẹ của ông:
Cô gái làng Xim mười bảy tuổi
Hát hay nổi tiếng khắp vùng
Khi cất lời ca
Những lứa hợp tình chuốt rơm bện ổ
Những vợ trái duyên chồng
Khăng khăng giả của.
Cha của ông:
Lại có anh học trò
Bổi hổi bồi hồi
Xăm xăm một bước vượt sông
Trầu cau chẳng kịp cốm hồng
Xác pháo đã vùi ngõ mưa lầy lội.
Tâm hồn ông:
Hai người chợt tiếc mừa xuân
Vội chắp lại đêm xuân thứ nhất
Nhờ đó tôi ra đời
(...)
Tôi lớn lên
Mang giọng mẹ tròn
Trong đôi mắt sáng...
2. Nhưng cũng
từ tình duyên của bố mẹ, tình vợ chồng “nghễnh ngãng như kèo đục vênh”
hơn mười năm ấy đã gieo vào hồn ông một nỗi ám ảnh da diết. Nỗi ám ảnh
càng da diết khi bao thế hệ liền anh liền chị, ở quê hương ông, tình
cùng hướng mà đi về trái nẻo.
“Thực tại nơi Hoàng Cầm cơ hồ thăng hoa tới những miền hư viễn của tâm
linh. Rất nhiều đam si, rất nhiều trầm ẩn, nên không hiếm khoảnh khắc
hồn thơ ông nhập vào vô thức” (Sđd, tr. 8).
Có lẽ như thế! Ấn tượng tuổi thơ đã chuyển hoá vào vô thức, thành
linh hồn thơ của ông. Vì vậy, thơ ông có sự phóng túng Kinh Bắc, có sự
rạn vỡ tình yêu, có cả những nẻo đường vô định trong sự kiếm tìm hạnh
phúc.
Phải chăng đó là tâm thức lưu đày trong “mê thiếp nghiệp oan tình” như ông viết:
Tập thơ một đời tôi gửi tặng một người
Tự lĩnh án chung thân trong tiếc hận
Một thời xanh và một khoảng quê hồng
Chịu xoá sạch vì ngang duyên trái phận
Vạch nét hằn sâu đáy mắt mê cung
Như hòn núi vọng vô phương hạnh phúc
Bao năm đau kết thành viên ngọc huyền quang
Ai biết nằm đâu? – Dáng màu vi diệu ấy?
Đứng im chìm, núi xám chít vành tang
Tôi may mắn gặp trăng sao trằn trọc
Nghe dòng thương ... tôi chép vôi
phút nguyên trinh
Là ánh chớp từ tâm linh bật khóc
Tặng lại người mê thiếp nghiệp oan tình
(Lời đề tặng – Hà Nội, cuối thu 1992)
Và cũng với ông, những ám ảnh ấy trở thành dòng xoáy định mệnh cuốn xô
ông theo nhịp “luân hồi”, mê si đeo đẳng chiếc bóng tình yêu:
Con đấy ư
Con đã về Kinh Bắc
Những cỏ Bông Thi
với dế đầu si
Những lá Diêu Bông
với đôi xe hồng
luân lưu thụ thai qua chín đời
đằng đẳng
đến khi con lọt lòng
Cây đu đủ sau nhà vừa bấm ngọn
đội mũ niêu đen
đi trong đêm mưa dầm
Mẹ đau trở dạ
Sinh con ra
Tiếng tù và xé canh ba
Báo hiệu một cơn giông nín lặng
Trống liên hồi ra đi
ngăn trận bão mênh mông
trong giọt lệ cuối hàng mi
Con đấy ư
mười ngày không khóc
mười thày lưng đờ đẫm
ven giường ẩm ướt
Mười đêm
Tiếng trống chèo vuốt ngực Châu Long
Bước sấp qua cầu nghẹ tiếng.
(Luân hồi)
III. Hoàng Cầm, người “ngủ lại giấc mơ dang dở”.
1. Đọc
tập thơ “Bên kia sông Đuống của Hoàng Cầm, ta có cảm giác: “Một đời thơ
dài nửa thế kỉ chắt lọc nên tập thơ này... có thể hình dung trọn vẹn
chân dung tinh thần tự hoạ của ông” (Sđd, tr.7)
Đấy là một chân dung tinh thần của một gã non trai đầy đam si tình yêu và hạnh phúc nhưng chẳng bao giờ nắm được tinh yêu trong tay mình.
Gaston Bachelard (1884-1962): “Thơ ca chính là sự mơ mộng xoay quanh
vật chất nguyên thuỷ, những yếu tố làm nên thế giới: lửa, nước, đất và
không khí”. Những yếu tố tồn tại trong vô thức tập thể với tư cách là
siêu mẫu (arrchetype).
C.G Jung: “Nghệ thuật trong thực tiễn sáng tạo của mình là một hoạt
động tâm lí và với tư cách đó nó có thể và nó cần phải được phân tích
theo lối tâm lí học”
Freud: “Những đặc trưng của sáng tác nghệ thuật mang tính cá nhân gắn lền với cảm xúc riêng tư, thầm kín của nghệ sĩ”
C.G. Jung: “Quá trình sáng tạo như chúng ta nói chung có thể theo dõi
được, là hà hơi sống cho siêu mẫu từ trong vô thức, là trải nó ra và tạo
hình cho nó đến khi thành một tác phẩm nghệ thuật hoàn chỉnh”.
C.G. Jung: “Từ sự không thoả mãn với đương thời, nỗi buồn sáng tạo dẫn
đưa nghệ sĩ đi vào bề sâu cho tới khi tìm thấy trong vô thức cái nguyên
sơ tượng có khả năng bù đắp lại cao nhất sự tổn thất què quặt của tinh
thần hiện đại”.
“Với một định hướng rõ rệt, ông kiên lòng tìm đến những chủ đề vĩnh
hằng, những chân giá trị thách thức mọi xói mòn, xô giạt của thời gian
lãnh đạm” (Sđd, tr.8).
Bài thơ "Cỏ Bông Thi" như là một định mệnh ám ảnh tuổi thanh xuân:
Ngày mười bảy tuổi
Trót chơi cỏ Bông Thi
Từ đó, nhân vật trữ tình như bị tách ra khỏi ngoại giới, chỉ còng sống trong cõi tâm linh:
Cỏ Bông Thi phải cheo leo mõm đá
Bài thơ điệp trùng sự trống không:
Không trói mà không đi
Không canh gà
Không thu không
Mắt không mở
Đừng khép
Nhưng gợi ra một sự thật của một linh hồn vô vọng: “Em có vọng ai đâu mà hoá đá”.
Thơ Hoàng Cầm luôn treo lơ lửng một chữ “không”. Một chữ không lơ mơ ảo thực nhưng đủ sức xô đẩy nhà thơ vào cõi vô thức, để chiêm nghiệm đến tận cùng nỗi cô đơn trong tình yêu và trong cuộc đời.
Dường như cánh gió không bay
Lời ca không hát rượu đầy không men
Dường như nhớ lại không quen
Một mình tôi... một mình em... lạ thường
Dường như trăng chếch bên giường
Tiếng gà tiễn biệt đêm trường lặng im
(Một mình)
Bài thơ như phảng phất không khí liêu trai. Người thư sinh tìm bóng,
bóng chưa thấy đâu mà chỉ thấy đêm tịch lặng buồn hiu vây bủa.
“Cây tam cúc”:
Nghé cây bài ìm hơi tóc ấm
Em đừng lớn nữa chị đừng đi
Tướng sĩ đỏ đen chui sấp ngửa
Ổ rơm thơm đọng tuổi xuân thì
...
Năm sau giặc giã
Quan Dốc đồng áo đen nẹp đỏ
Thả tịnh vàng cưới chị
Võng mây trôi
Em đứng nhìn theo em gọi đôi.
“Lá Diêu Bông”:
Váy Đình Bảng buông chùng cửa võng
Chị thẩn thơ đi tìm
Đồng chìều
cuống rạ
Chị bảo
- Đứa nào tìm được lá Diêu Bông
Từ nay ta gọi là chồng
Hai ngày Em tìm thấy lá
Chị chau mày
- Đâu phải lá Diêu Bông!
Mùa đông sau Em tìm thấy lá
Chị lắc đầu
Trông nắng vãn bên sông
Ngày cưới Chị
Em tìm thấy lá
Chị cười xe chỉ ấm trôn kim
Chị ba con
Em tìm thấy lá
Xoè tay phủ mặt Chị không nhìn
Từ thuở ấy
Em cầm chiếc lá
Đi đầu non cuối bể
Gió quê vi vút gọi
Diêu Bông hời!...
... ới Diêu Bông !...
“Hai ngả”:
Anh đi về phía không em
Em đi về phía dài thêm bão bùng
Anh đi sắp đến vô cùng
Em đi sắp đến cánh hồng đang rơi
Bảy mươi đứng phía ngoẹn cười
Tám mươi đứng khóc nẻo đời chưa khô
Trăm năm nhào quyện hư vô
Biết đâu em vẫn lửng lơ hát buồn
“Chùa Hương”:
Em trẩy chùa Hương phía giải oan
Mắt nghiêm màu Phật chật đò ngang
Phải cô công chúa con nhà Lý
Khép áo kinh kì mấy cửa hang?
...
Chuông sớm có nghiêng về mộng cũ
Nhường em vướng tóc sợi mây xa?
Bàn tay chắp cánh chừng nguôi nhớ
Sao buộc làn hương thoảng lướt qua?
...
Anh trẩy chùa Hương phía xót thương
Bến Trong bến Đục nửa chia đường
Hinh bồng chợt lắng chuông buông tím
Bỗng gặp em nằm đắp khói sương
...
Anh giải oan em chẳng hết oan
Suối khuya cắt xé tiếng kêu than
Hỏi em xứ Phật nào yên tĩnh?
Em gượng cười soi bóng đá vàng
...
Nửa đêm mùng bảy lặn trăng non
Anh hẹn em về cõi sáng hơn
Cầm tay em lạnh đưa đi mãi
Mê mải rừng mai thấp thoáng hương.
“Gọi Đôi”:
....
Em cầm lấy cõi mưa nhung
Miên man tơ óng xuôi vùng khe sâu
Em ngồi đâu Chị đứng đâu
Bỗng dưng hai đứa hai đầu hư không
Em cầm được cõi mưa nhung
Mờ chênh gối Chị đôi dòng ngẩn ngơ
Em chìm chưa? Chị nổi chưa?
Bỗng dưng hai đứa hai bờ tháng năm
...
Song song có gặp bao giờ
Hai dòng lệ chảy, hai bờ sông trôi
Mưa nhung áp má bồi hồi
Nghe khô từng sợi mưa dài lặng im
Em không nổi, Chị không chìm
Chị tung gió tím, Em tìm sang xuân
Nằm trong mắt bão tuyệt trần
Mưa nhung tung cánh tuyệt trần...
Em bay...
“Chị Em xanh”:
Chị vỡ pha lê. Bùn vấy tay
Hồn trong Em chuốc Chị chìm say
Là Em cưới Chị xanh thiêm thiếp
Sinh một đàn con
Mây trắng bay.
“Ngẩn ngơ”:
Em không đến. Thế là anh đã ngủ
Ngậm hình em lá ngọt tím môi chì
Em xa quá. Anh càng xa xa nữa
Cười ngây ngô qua phố ngợ ngàng đi
“Xanh xưa”:
Đôi ba năm khép một vòng
Vòng cay xé lưỡi mắt ròng tuổi mưa
...
Thôi em! Cỏ mịn chân đê
Anh đưa em nhẹ gót về xanh xưa
Chỉ tay xuống đất làm mưa
Mát chân em khoả lững lờ nguồn xuân
Tan rồi hạt bụi ái ân
Vướng mi em một đôi lần... phải không?
“Anh đứng đây là đâu “:
Anh đứng đây là đâu
Em cười như lá mỏng
Khép cửa vào chiêm bao
...
Em nói như gió nghẹn
Em nhìn như mưa nắng
...
Anh đứng đây là em
“Nước sông Thương”:
Rồi chị bảo em quên
Em tơ tưởng sao bắt em đừng nhớ
Buông tha Em
Buông Em
Sông Thương nước chảy đôi dòng
“Hội Gióng”:
Chú bé lên ba là tướng võ nhà trời
Ai ngờ đã bốn nghìn năm manh mối
Xuân đến lụa the
Cầm gậy tre đi se duyên cô Tấm ông Hoàng
Vớt Trương Chi về gấm đỏ lầu Tây.
“Em cứ về bên ấy”:
Dẫu xuân sang, em cứ về bên ấy
Váy Ngân Hà loang mặt Tiểu hùng tinh
Ở bên này sao Ngưu đứng vậy
Nghẽn mùa hoa mắt ướt hoà xanh...
“Mai sau dù có bao giờ...”:
Bao giờ Em xế về Em
Ôm cây cỏ đắng ngọt mềm trên môi
Cây dàn hoàng tử ngậm ngùi
Bởi đâu bão tố hé cười anh trăng
Bao giờ Anh xế về Em
Nắm tay được mấy hạt đêm Kim Kiều
Mấy là thương mấy là yêu
Mắt trăng hôm ấy mấy chiều đỏ hoe
Bao giờ Em xế về quê
Cỏ xanh có khóc một thề mai sau...?
“Giọt mưa phương Nam”:
Mưa đi về anh mưa đi lưu li
Kinh Bắc hồng môi gái xưa kinh kì
Kinh Bắc lên men đằm hương vương phi
Giọt mưa phương Nam lệ nhoà qua mi.
“Tinh anh thể phách”:
Em lại đi – Sao cứ đi
Ngẩn ngơ vũ trụ còn gì trong tay
Em trao vẹn cả bơ vơ
Cái đau băm nát lời thơ máu trào.
Chợt vui trẻ dại chợt buồn
Long lanh mắt sáng ngậm tròn giọt đau.
“Về ngôn ngữ,... Đó là tiếng nói đầy ấm ức, đầy chiêm nghiệm và cũng
tràn trề giải thoát. (...) chưa thấm mệt trước bờ bến ngôn từ” (Sđd, tr.
8)
Màu sắc:
Kìa dây muống dại kín Em rồi
Kìa dây muống dại kín Em rồi
Lắc đầu hoa tím rụng
(Cỏ bồng thi)
Đầm ca dao sáo diều chiều lịm tím lưng trâu
(Đêm Thổ)
Hành hương chợt lắng chuông buông tím
(Chùa Hương)
Chị tung gió tím, Em tìm sang xuân
(Gọi Đôi)
“Hương tím em về đậu giữa trang thơ”
“Trên ngực tròn hương tím thức đêm nay”
“Đài hương tím bỗng uốn mình nở rộ”
“Thoảng đài tím đậu mắt treo ghềnh”
“Em thay tím vì phương Nam lửa đỏ”
“Em không nói. Chiều nay không bóng tím”
“Ngậm hình em lá ngọt tím môi chì”
(Ngẩn ngơ)
Hình và nhạc thơ:
“Chuồn chuồn khiêng nắng sang sông”
“Chớp rạch dáng tiên vén xiêm xoã ngủ”
“Đầm ca dao sáo diều chiều lịm tím lưng trâu”
(Đêm Thổ)
“Chuông chiều cởi yếm”
“Chuông sớm đội khăn”
“Gió vào trăm cửa
Gió ra hồng da trinh nữ
Gió vào xanh quan lục
Gió ra vàng thớ mít
Ong bay vai áo tiểu thon mình”
(Đêm Thuỷ)
“Trăng lên chém đầu ngọn gió
Cành si bưng chậu máu chát chao
Cuối năm rì rầm tiếng khóc
Chàng ơi ngựa tía võng đào”
(Đêm Hoả)
“Lung linh hồn liệng quỳ khe núi”
(Dáng thơ)
IV. Kết luận :
Hoàng là người thơ Kinh Bắc. Thơ ông tỏa ra hơi hướm Kinh Bắc,
một Kinh Bắc văn hóa, Kinh Bắc tài hoa, đa tình. Nhưng đó
là một Kinh Bắc để lại bao nhiêu ám ảnh đớn đau trong tâm hồn
nhà thơ. Để từ đó, nhà thơ đã đem nỗi đau tình ấy mà phổ vào
thơ, tạo nên một khí hậu thơ ẩm ướt chất tâm phân học được
diễn đạt bằng ngôn từ ấm ức, chiêm nghiêm và tràn trề giải
thoát.
Và như vậy có thể nói rằng trên con đường thơ ca chật chội, lắm kẻ chen chân, bước chân Hoàng Cầm vẫn vững vàng trên lối đi riêng của mình trong suốt một đời sáng tạo.
_______________________
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét