Quá trình hiện đại hóa văn học
từ đầu thế kỉ XX đến năm 1945
từ đầu thế kỉ XX đến năm 1945
I) Dẫn nhập:
1. Hiện đại hóa văn học là một quá trình, theo quy luật: kế thừa và
tiệm tiến của văn học. Và đặc biệt trong sự tràn lấn, giao lưu với văn
hóa văn học phương Tây, qua trình ấy có tính chất tiếp biến, từ văn hóa
văn học ngoại lai thành văn học dân tộc với tất cả những tính chất cổ
điển và hiện đại của nó.
2. Nhưng vấn đề hiện đại hóa diễn ra ở bình diện nào, vấn đề cơ bản nào
làm thay đổi diện mạo của văn học. Phải chăng đó là sự thay đổi về: ý
thức cá nhân của nghệ sĩ, quan điểm văn học, hệ thống chủ đề, hệ thống
hình tượng, thể loại, ngôn ngữ văn học,... làm rõ những nét truyền thống
và những nét cách tân hiện đại của văn học Việt Nam từ đầu thế kỉ XX
đến 1945.
II) Quá trình hiện hóa văn học Việt Nam đầu XX-1945:
1. Cắm mốc cho quá trình hiện đại hóa:
1.1. Có nhiều ý kiến: 1930, 1932, lại có ý kiến 1920 (sự kiện văn
chương của Nguyễn Ái Quốc). Thực ra, những yếu tố, mầm mống cho chất
hiện đại đã có trong văn xuôi chữ Quốc ngữ từ những năm cuối thế kỉ XIX ,
tiêu biểu là "Truyện thầy Lazaro Phiền" của Nguyễn Trọng Quản in ở Sài
Gòn năm 1887, một tác phẩm có tính tiên phong và hiện đại cả nội dung
lẫn hình thức.
1.2. Mốc 1900 là hợp lí, bởi văn học Việt Nam đi vào quỹ đạo hiện đại
hóa là xuất phát từ bản thân đời sống văn học, những chuyển động của nó
và từ góc nhìn văn học bằng thế kỉ: Thế kỉ XX, văn học Việt Nam chuyển
động và vận động theo một hướng mới, một quá trình mới. Quá trình này
không tách rời quá trình biến đổi của lịch sử trong một tình thế tất yếu
khách quan: yêu cầu canh tân đất nước và cũng nằm trong xu hướng chung
của khu vực châu Á.
2. Chữ Quốc ngữ với sự phát triển thơ ca:
2.1. Chữ Quốc ngữ và vai trò hiện đại hóa thơ ca dân tộc:
2.1.1. Những năm cuối thế kỉ XIX, thực dân Pháp bỏ chữ Hán, bỏ thi cử
cũ. Những năm đầu thế kỉ XX, trí thức yêu nước Việt Nam cổ súy việc dùng
chữ Quốc ngữ, tạo điều kiện nâng cao dân trí, tự cường dân tộc. Trong
số đó tiêu biểu có Phan Bội Châu, Nguyễn Thượng Hiền, Trần Quý Cáp,...
và các nhà nho trong phong trào Đông Kinh nghĩa thục:
Trước hết phải học ngay chữ Quốc ngữ,
Khỏi đôi đường tiếng, chữ khác nhau.
Chữ ta, ta đã thuộc làu,
Nói ra nên tiếng, viết câu nên bài.
(Nguyễn Phan Lãng)
Từ những phong trào trên, bước sáng thế kỉ XX, ngôn ngữ văn học dựa
trên ngôn ngữ nói. Quốc ngữ trở thành quốc văn. Chữ Quốc ngữ là dấu hiệu
nhưng cũng là nhân tố tích cực đẩy nhanh quá trình hiện đại hóa và góp
phần hoàn tất quá trình hiện đại hóa văn học, hiện đại hóa thơ ca,
truyện ngắn, tiểu thuyết, phóng sự,... .
2.1.2. Chữ Quốc ngữ ghi lại lời ăn tiếng nói hằng ngày, tiếng nói đời
sống, Chữ Quốc ngữ làm thay đổi quan niệm văn học, nên nhanh chóng trở
thành phương tiện đắc lực cho các nhà văn, nhà thơ sử dụng trong nghề
văn của mình. Các nhà thơ quan niệm: Làm thơ là truyền bá tư tưởng yêu
nước, thức tỉnh và kêu gọi hợp quần tự cường, tự chủ; làm thơ là thể
hiện tình cảm một cách tự nhiên. Tình cảm thay đổi, thơ phải thay đổi.
Câu thơ Việt bắt đầu có sự rõ ràng, sáng sủa. niêm luật bị phá bỏ.
Thơ không bị ràng buộc bởi hình thức. Tình cảm trong thơ được thể hiện
phong phú và chân thật. Hoài Thanh: "Tôi quyết rằng trong lịch sử thơ
ca Việt Nam chưa bao giờ có một thời đại phong phú như thời đại này.
Chưa bao giờ người ta thấy xuất hiện cùng một lần một hồn thơ rộng mở
như Thế Lữ, mơ màng như Lưu trọng Lư, hùng tráng như Huy Thông, trong
sáng như Nguyễn Nhược Pháp, ảo não như Huy Cận, quê mùa như Nguyễn Bính,
kì dị như Chế Lan Viên,... và thiết tha rạo rực như Xuân Diệu." (Thi
nhân Việt Nam).
2.1.3. Chữ Quốc ngữ ghi lại lời ăn tiếng nói của đời sống phong phú,
thơ gần đời sống hơn, chất thực được gia tăng. Thơ Quốc ngữ trọng trực
tiếp, diễn đạt tinh tế vóc dáng và tâm hồn, cảnh vật và con người với
những cảm nhận riêng độc đáo, giàu cảm xúc, giọng điệu.
- Thơ Tản Đà là vẻ đẹp quê hương, xứ sở, đất trời phảng phất sông thu, sương thu, khói htu, trăng thu, "lá thu rơi rụng".
- Thơ Trần Tuấn Khải là cảnh gánh nước đêm, là anh Khóa đi, anh Khóa về.
- Thơ Thế Lữ là tiếng sáo diều trên bầu trời cao rộng, là nỗi nhớ một thời oanh liệt của một con hổ khát khao tự do.
- Thơ Xuân Diệu là khát vọng sống, khát vọng yêu với những sớm xuân, chiều thu, những đêm trăng và mùi hoa bưởi.
- Thơ Huy Cận có cảnh chiều tà, cồn cát, đường làng thơm mùi rơm rạ, bãi sống, "củi một cành khô lạc mấy dòng".
- Thơ Hàn Mặc Tử có "đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng", có cô gánh thóc
"dọc bờ sông trắng nắng chang chang", có cô gái thôn Vĩ bên những hàng
cau, những vườn cây "mướt xanh như ngọc".
- Thơ Nguyễn Bính có thôn Đoài, thôn Đông, vườn trầu, hàng cau, giếng nước, cây đa và những mối tình quê dang dở.
- Thơ Đoàn Văn Cừ, Anh Thơ, Bàng Bá Lân rực rỡ cảnh chợ Tết, cảnh trẩy
hội mùa xuân, cảnh buổi sáng ra đồng, bến đò ngày mưa, cảnh làng quê
với những sinh hoạt và công việc từ ngàn xưa lưu lại.
- Thơ Chế Lan Viên, những bài thơ ngậm ngùi cảm thương cho một quốc gia đã mất.
Thơ Quốc ngữ đã tạo nên một thời đại của chữ TÔI và thi pháp hiện đại
trong thi ca. Cảm xúc chủ quan qua cá thể hóa được thể hiện phóng túng
trong những câu thơ không bị gò bó bởi khuôn khổ và niêm luật. Thi tứ
thay đổi thì thể thi cũng thay đổi. Vũ Ngọc Phan: "Người ta nhận thấy
một phong trào rõ rệt: các nhà thơ đã đi từ những lối rất bó buộc đến
những lối thật tự do, để rồi quay về với cái phải chăng có tính chất
Việt Nam không quá thiên về Tàu như xưa, cũng không thiên quá Tây như
trước" (Nhà văn Việt Nam hiện đại).
2.1.4. Chữ Quốc ngữ với sự thay đổi hình thức thơ:
Tản Đà từng nêu tuyên ngôn về văn chương mới:
Nếu không phá cách bỏ vận luật
Khó cho thiên hạ đến bao giờ.
Từ đây đã có sự chuyển đổi về nhiều mặt. Trước hết là thơ dịch. Nguyễn
Văn Vĩnh dịch thơ La fontaine, Con ve sầu và con kiến không theo thể
cách cũ, đăng trên Đông Dương tạp chí, số 40, năm 1914 :
Ve sầu kêu ve ve
Suốt mùa hè
Đến gió bấc thổi
Nguồn cơn thật bối rối
Một miếng cũng chẳng còn
Ruồi bọ không một con...
Còn Tản Đà thì phá vỡ khuôn khổ câu thơ cũ khoảng từ năm 1914 với bài Hoa rụng trong Khối tình con:
Đang ở trên cành bỗng chốc rơi
Nhị mềm cánh úa
Hương nhạt màu phai
Sống chửa bao lâu đã hết đời
Thế mà hoa lại sướng hơn người.
Năm 1921, Tản Đà viết Cảm thu, tiễn thu:
Từ vào thu đến nay
Gió thu hiu hắt
Sương thu lạnh
Trăng thu bạch
Khói thu xây thành
Lá thu rơi rụng đầu ghềnh
Sông thu đưa lá bao ngành biệt li.
Năm 1925 trong Giấc mộng con, Tản Đà lại viết:
Non xanh xanh
Nước xanh xanh
Nước non như vẽ bức tranh tình
Nước non tan tành
Giọt lệ tràn năm canh.
Thơ Tản Đà đã "phảng phất chút bâng khuâng, chút phóng túng của thời
sau" (Hoài Thanh-Thi nhân Việt Nam) và hình thức tự nhiên như giọng điệu
tiếng Việt, khi ngắn khi dài tương tự những bài sa mạc, những bài phong
dao của dân gian.
Năm 1932, Phan Khôi kết án thơ cũ câu thúc và ông trình làng thơ một
bài thơ "đem ý thật có trong tâm khảm mình phả ra bằng những câu có vần
mà không bó buộc bởi niêm luật gì hết".
Hai mươi bốn năm xưa, một đêm vừa gió lại vừa mưa
Dưới ngọn đèn mờ, trong gian nhà nhỏ, hai cái đầu xanh
kề nhau than thở
Ôi đôi ta, tình thương nhau thì vẫn nặng. Mà lấy nhau
hẳn đà không đặng
Để đến nỗi tình trước phụ sau, chi bằng sớm liệu mà
buông nhau.
(Tình già)
2.1.5. Thay đổi từ ngữ, tạo sự kết hợp từ ngữ mới:
Những cách sử dụng kết hợp từ ngữ mới đậm chất biểu cảm, có khả năng
diễn tả được những rung động tinh tế đa dạng tâm hồn con người, vẻ đẹp
thiên nhiên và những biến thiên xã hội.
Có thể so sánh:
Thú thiên nhiên đâu bằng Hương Tích
Đã thanh cao cảnh lịch trăm chiều
Người thì vui sô, lạp, ngư, tiều,
Kẻ thì thích yên hà phong nguyệt,
Kho vô tận những thế nào chưa biết,
Thú hữu tình sơn thủy thật là vui.
Khi đăng lâm có lối lên trời,
Mây dưới gót đủ xanh, đen, vàng, đỏ, trắng.
(Dương Khuê -Cảnh Hương Tích)
Hôm nay đi chùa Hương
Hoa cỏ mờ hơi sương
Cùng thầy me em dậy
Em vấn đầu soi gương...
Em đi chàng theo sau
Em không dám đi mau
Ngại chàng chê hấp tấp
Số gian nan không giàu
(Nguyễn Nhược Pháp- Đi chùa Hương)
Với Dương Khuê, chùa Hương là một thiên nhiên kì thú đầy sắc màu, có
non nước, có tài tử giai nhân; từ ngữ đã được khách thể hóa, phù hợp với
sự diễn tả mối quan hệ giữa người và cảnh. Con người tách ra khỏi thiên
nhiên, chiêm ngưỡng thiên nhiên trong tâm thế an nhàn, tĩnh tại.
Với Nguyễn Nhược Pháp, chùa Hương hiện lên qua một bảng từ ngữ gần gũi
với đời sống, diễn tả được tâm hồn trong sáng trong sáng của một cô
thiếu nữ lên chùa mà lòng thì hé mở niềm xao xuyến của tình yêu.
Từ ngữ đời sống phong phú tạo nên những cách diễn đạt, kết hợp từ, ngữ
sáng tạo thể hiện đúng sự tinh vi và cảm quan phức tạp.
Mây biếc về đâu bay gấp gấp
Con cò trên ruộng cánh phân vân
Chim nghe trời rộng dang thêm cánh
Hoa lạnh chiều thưa sương xuống dần
(Xuân Diệu - Thơ duyên)
Rưng rưng hoa phượng màu thương nhớ
Son đậm trên thành một sắc xưa.
(Huy Cận)
Ánh xuân lướt cỏ xuân tươi
Bên rừng thổi sáo một hai Kim đồng
Tiếng đưa hiu hắt bên lòng
Buồn ơi! Xa vắng mênh mông là buồn.
(Thế Lữ - Tiếng sáo Thiên Thai)
Từ ngữ tiếng Việt đã thực sự dậy lên hương thơm, tràn thấm những sắc
màu của nhạc, của hoa, của tâm hồn. Tiếng Việt giàu có nên có sự kết hợp
từ ngữ biến hóa rất nghệ thuật.
2.1.6. Theo lối tả thực, trực tiếp rõ ràng, bảng từ ngữ mới mở rộng,
biến đổi những hình thức cũ, tạo ra hình thức thơ mới. Dù kế thừa thơ ca
truyền thống nhưng vần nhịp đã đổi thay. Đường luật vắng bóng. Lục bát
vẫn được trân trọng. Thơ bảy, tám chữ, năm chữ có khả năng tấu nhạc, khi
réo rắc, khi êm đềm.
Thu lạnh càng thêm nguyệt tỏ ngời
Đàn ghê như nước lạnh trời ơi!
Long lanh tiếng sỏi vang vang hận
Trăng nhớ Tầm Dương nhạc nhớ người.
(Xuân Diệu - Nguyệt Cầm)
Đêm hôm ấy em mừng
Mùi trầm hương bay lừng
Em nằm nghe tiếng mõ
Rồi chim kêu trong rừng.
(Nguyễn Nhược Pháp - Đi chùa Hương)
Thơ hai chữ một sáng tạo đặc biệt độc đáo:
Từng giọt
Tơi bời
Mưa rơi
Gió rơi
Lá rơi
Em ơi!
(Nguyễn Vỹ - Sương rơi)
Thơ tám chữ dựa vào thể hát nói, vin vào hình thức thơ phương Tây định
hình thể thơ tám chữ Việt Nam vần liên tiếp từng cặp một:
Làng tôi vốn làm nghề chài lưới,
Nước bao vây cách biển nửa ngày sông.
Khi trời trong, gió nhẹ sớm mai hồng,
Dân trai tráng bơi thuyền đi đánh cá.
Chiếc thuyền nhẹ băng như con tuấn mã,
Phăng mái chèo, mạnh mẽ vượt Trường Giang.
(Tế Hanh - Quê hương)
Trong thơ mới, thơ tự do chỉ là một phần nhỏ, nhưng từ ngữ, cấu trúc câu, vần nhịp lại rất đáng chú ý:
Sớm nay tiếng chim thanh
Trong gió xanh
Dìu vương hương ấm thoảng xuân tình
(Đoàn Phú Tứ - Màu thời gian)
Như vậy chữ Quốc ngữ ra đời và phát triển đã đánh bật "cuộc xâm lăng
của văn xuôi", từ xung khắc đi đến sự "hòa giải với truyền thống" (Trần
Đình Hượu).
2.2. Sự phát triển thơ ca từ 1900 đến 1945:
2.2.1 Cuộc cách mạng thơ ca từ đầu thế kỉ XX nằm trong dòng chảy của
quá trình hiện đại hóa đất nước, hiện đại hóa đời sống, tư tưởng văn hóa
của dân tộc. Sự phát triển thơ ca trong giai đoạn này vẫn có sự chuyển
giao của các thế hệ nhà thơ.
2.2.2 Thế hệ nhà thơ của những năm 1900 đến 1932:
- Phan Bội Châu: Là một nhà nho chí sĩ yêu nước và cách mạng. Thơ
ca của ông có sự biến đổi về nội dung tư tưởng, ý thức hệ; nhưng thể
loại vẫn chưa có gì đổi thay, có chăng là từ ngữ bớt đi tính uyên bác,
gần với đời sống hằng ngày hơn. Trước sự phát triển rầm rộ của phong
trào thơ mới, ông viết ba bài: Uống rựou dưới trăng, Khóc hòa phú và
Khóc bạn trẻ. Uống rượu dưới trăng có hồn và đậm chất thơ hơn cả.
Ta say, mày say, chẳng bao giờ rời
Chốc lại trông trăng, trăng mỉm cười
Mình với trăng với bóng thành ba người
Chén đầy chén với, chén đầy rồi lại chén vơi
Mình dậy múa, bóng theo hoài
Mình ngồi hát, trăng nghe chơi.
Bài thơ có sự cách tân thể tài nhưng nội dung cảm xúc vẫn cũ, vẫn in
dấu thơ ca cổ điển phương Đông. Nhà thơ một mình với trăng, với vũ trụ
để cảm nhận cái vĩnh hằng vô cùng của không- thời gian đối lập với kiếp
người hữu hạn. Bài thơ vẫn nằm trong hệ thống đề tài cũ: chủ thể trữ
tình - trăng - rượu, hướng tới sự cô đơn và yên tĩnh.
- Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu: Là một nhà nho tài tử, Tản Đà bộc lộ
cái tôi của mình rõ nét trong thơ nhất. Cái tôi khoe tài (Xuống ngọn bút
mưa sa gió táp - Vạch câu thơ quỷ thảm thần kinh), cái tôi đa tình
(Người đâu cũng giống đa tình - Tưởng là ai, lại là mình với ta) của nhà
thơ rất thích hợp với cái nhẩn nha, uyển chuyển của thể từ khúc, ca trù
và phong thi (ca dao) nhằm thể hiện nội dung cảm xúc trữ tình tình yêu.
Tình yêu trong thơ Tản Đà có cái tế nhị, nhẹ nhàng của tài tử giai
nhân, nhưng cũng có lúc vội vàng, giục giã. Dẫu sao, ứng xử tình yêu
trong thơ ông vẫn có nét đẹp của ca dao:
Mỗi năm mỗi tuổi
Như đuổi xuân đi
Măng mọc có lứa
Đôi ta có thì
Chơi đi thôi
Chơi mau đi thôi!
Cho trống thủng,
Cho chiêng long,
Cho cờ quấn ngược,
Kẻo cái già xồng xộc nó thi theo sau.
(Chơi xuân kẻo hết xuân đi)
Tuy
vậy cấu trúc nghệ thuật ca dao trong bài thơ đã bị phá vỡ. Tản Đà nhìn
đời bằng con mắt phong tình ái ân nên để cho nguồn cảm xúc tự do chảy
tràn, bất chấp vần luật, âm điệu. Ngay cả thể thơ thất ngôn trang nghiêm
dưới ngọn bút của Tản Đà cũng trở nên xộc xệch, buông thả; âm điệu
khuôn thước trong niêm luật cũng trở thành tiếng nói ngang ngang, khác
lạ:
Chơi lâu, nhớ quê về thăm nhà
Đường xa, người vắng, bóng chiều tà
Một dãy lau cao, làn gió chạy
Mấy cây thưa lá sắc vàng pha.
(Thăm mã cũ bên đường)
Cách phố Hà Nội gần không xa
Thú đâu hơn thú Trại Hàng Hoa
Có dịp đi chơi buồn giải buồn
Trưa lên hóng mát ngồi ngâm nga.
(Chơi Trại Hàng Hoa)
Có thể nói, Tản Đà là người mở đường chuyển dịch từ câu thơ ngâm sang
câu thơ nói. Thơ Tản Đà có nhiều chất liệu cuộc đời trần tục, đời sống
thị thành đang tư sản hóa, cho nên hình thức cũ biến dạng trở nên phóng
túng tự do hơn. Thể thơ bảy chữ liền nhau tạo một vần bằng:
Chàng đi xa cách, nhớ quê hương
Quê hương, đất khách người một phương
Mong chàng chẳng thấy, lòng ngùi thương
Buồng không, canh vắng, bóng in tường.
(Thu khuê oán)
Cho dù có cách tân, nhưng thơ Tản Đà chưa thể hòa vào dòng thác thơ
mới (1932-1945). Là con người tài tử, ông chỉ thể hiện cái tôi hồn
nhiên, nhẹ nhàng chứ chưa ý thức khẳng định nó. Là con người đa tình,
ông yêu mà không cần chung thủy, không đi đến hôn nhân. Là con người
trần tục trong nếp sông nhà nho, ông vẫn giữ được nét ung dung, kiểu
cách. Vì vậy, ca dao, từ khúc, hát nói là phương thức biểu hiện thích
hợp với tư tưởng, cá tính của ông. Cả nội dung và hình thức, Tản Đà chỉ
cách tân trên những gì quen thuộc của truyền thống.
- Á Nam Trần Tuấn Khải: Là nhà thơ cùng thời với Tản Đà, nhưng cảm
hứng thơ lại nghiêng về yêu nước thương nòi. Thơ Trần Tuấn Khải rất
phong phú về hình thức biểu hiện, nhưng đáng chú ý là thể thơ lục bát,
"câu hát vặt" là lục bát biến thể ngân nga, chậm rãi như giọng điệu sa
mạc, thêm nhiều ý tứ, rất linh họat, vì vậy tâm trạng được thể hiện cụ
thể, sinh động và tha thiết hơn.
Anh khóa ơi! Lúc đêm thâu ngồi tựa chốn buồng điều
Một mình em mở quyển Kim Vân Kiều em đọc em ngâm
Đọc đến câu: "Đã nguyền đôi chữ đồng tâm"
Giật mình tưởng khách xa xăm em lại sầu.
(Mong anh khóa)
Tâm trạng yêu nước bùi ngùi, man mác bao trùm lên khắp sáng tác của
Trần Tuấn Khải. Bài Gánh nước đêm (1917) lời giản dị, ý tứ sâu xa:
Em bước chân ra
Con đường xa tít
Con sông mờ mịt
Bên vai kĩu kịt
Nặng gánh em trở ra về
... Cái bước đêm khuya thân gái ngại ngùng
Nước non gánh nặng
Cái đức ông chồng hay hỡi có hay?
Em trở vai nay.
Bài thơ đúng là nỗi đau mất nước, một lời kêu gọi kín đáo mà không kém thiết tha.
(còn tiếp)
Bác làm cái link của các phần liên quan thì người đọc mới tìm được bài.
Trả lờiXóa