Bờ sông Ô Lâu, làng Kế Mô |
Năm tháng rồi sẽ cuốn trôi tất cả những gì không thuộc về văn hóa truyền thống của một vùng đất, của một đất nước trong dòng chảy vô tình của nó. Nhưng văn hóa cũng không còn nếu không
có bao lớp người tạo dựng và
những thế hệ tiếp nối, giữ gìn và phát huy văn hóa thì tất
cả cũng vô tình khuất lấp mãi mãi sau mù khơi thời gian.
Tôi là một kẻ cứ mang những nghĩ suy như vậy đi giữa cuộc đời mà chưa bao giờ hành động vì những ý nghĩ đó. Có lẽ do tôi quá sách vở, tôi chỉ là con người lí thuyết mà không phải là con người hành động. Hoặc cũng có thể cuộc sống chưa hề độ lượng với tôi, đã đày ải tôi trong vòng chật chội của cơm áo, của “nghĩ gần hơn nghĩ xa” để được an thân đi về trên nẻo đường bình yên của riêng tôi. Cho nên, bây giờ “rủ áo phong hầu” mới nhận ra mình chưa hề sống đúng nghĩa của cụm từ “sống là mình” như Hoài Thanh nói trong “Thi nhân Việt Nam”.
Sỡ dĩ, tôi buồn rầu mà thố lộ như thế bởi trong tôi hôm nay có rất nhiều lí do, và một trong những lí do đó là tôi chưa làm được gì cho làng quê Kế Môn yêu dấu của tôi. Thời gian tôi gắn bó với quê hương không nhiều và không dài, nhưng nơi đó là nơi chôn nhau cắt rốn của tôi, nơi tổ tiên tôi bao đời dựng nghiệp, xây dựng và phát triển văn hóa Kế Môn. Dù thế, Kế Môn vẫn là miền kí ức không hề phôi pha theo năm tháng trong tôi. Cho nên, dù xa quê, tôi luôn đau đáu hướng về quê nhà. Quê hương từ kí ức, từ niềm yêu thương, từ niềm tự hào đã chuyển hóa thành không gian nghệ thuật trong những truyện ngắn, trong những bài thơ của tôi. Ngay từ những truyện ngắn “Giọt nắng cuối cùng”, “Sa mù”, “Ngủ vùi trong lá” viết thời trung học, đã có khuôn mặt của quê tôi. Và rồi những nhân vật trong truyện ngắn như “Sư phụ”, “Chị Đoài”, “Hùng Lừa”, “Điều hoang tưởng của lão Ngọ”, “Người đàn bà có số sát phu”,… luôn mang trong mình họ mùi đất, mùi cây trái của làng tôi, Họ nghĩ suy, nói năng bằng từ ngữ, giọng điệu quê tôi. Họ cũng nói “răng mô tê rứa”, dùng những từ “xuốt” thay từ “quét”, từ “cươi” thay từ “sân”, “cái trốt” thay cho “cái đầu”,… Nhưng điều đó chưa biến tôi thành con người hành động, tích cực gìn giữ, đóng góp cho sự tồn tại và phát triển của văn hóa làng tôi.
Nhớ ngày xưa, thời đại học Huế mà cười ra nước mắt. Người Quảng Nam thì bảo tôi, mi sống và học tập ở Đà Nẵng vậy về phe bọn tao, ơ… nhưng mà mi nói giọng mắm ruốc, không được… Còn dân Thừa Thiên thì gật gù : Mi gốc Kế Môn, nói giọng Huế bọn tao cho mi nhập hội, ơ (lại ơ)… mà mi ở Đà Nẵng, cái giọng mi lai rồi, răng mà cho mi vào hội, không được mô… Tôi giả đò buồn rầu hỏi lớ ngớ : Vậy tôi biết làm sao đây ? Có bạn nhanh miệng : “Thì mi lên đèo Hải Vân mà ở”. Chuyện vui thôi. Tôi chẳng hề lên “Đệ nhất hùng quan” để ở, để bầu bạn với trăng sao. Trong tôi, Đà Nẵng mãi là niềm yêu thương thiết tha. Bởi đây là vùng đất đã cưu mang tôi, đùm bọc tôi, che chở tôi thuở còn tuổi nhỏ phải sớm xa nhà. Và nơi đây tôi được sống giữa tình cảm yêu thương của thầy cô và bằng hữu trung học Phan Châu Trinh và bạn văn của một thời tập tành cầm bút. Chính tình cảm đó đã giúp tôi vững tin mà bước vào đời. Đà Nẵng là quê hương thứ hai của tôi. Đà Nẵng là một nửa tính cách và tâm hồn tôi. Cái nửa này hài hòa với nửa kia, nửa Đà Nẵng tương giao với nửa Kế Môn tạo nên cái “tôi” của tôi chứ không là của ai khác. Cho nên, tôi mãi gắn bó máu thịt với Đà Nẵng, những vẫn nhớ về “quê hương khuất bóng hoàng hôn” là thế.
Ngày nay, đã có rất nhiều tấm lòng Kế Môn vì một Kế Môn phát triển ngày càng văn minh, văn hóa hơn. Tôi nhớ, có lẽ không chính xác lắm, những con người quê tôi nặng tình nặng nghĩa quê hương. Đó là gia đình ông Nguyễn Thanh Côn đã bê tông hóa con đường ngang của làng. Đó là anh Hồ Huệ đã xây dựng một thư viện để con dân trong làng nâng cao kiến thức, văn hóa; hay đã xây dựng bia Tiến sĩ trong rú. Đó là Giáo sư Tiến sĩ Hồ Tá Quốc thành lập học bổng Hồ Tá Bang hỗ trợ cho các cháu cùng quê học tập. Đó là anh Đặng Minh Hiền đã lập nên website “Làng Kế Môn” vừa để thông tin, giao lưu, vừa ghi lại những truyền thống quý báu của làng. Trang web là một sân chơi nhưng cũng là mảnh đất để con người Kế Môn trang trải nỗi lòng, tình yêu và niềm tự hào về quê hương của mình qua cuộc thi viết về làng. Đáng quý và đáng trân trọng hơn nữa, trang web đã vận động, trao học bổng cho các em trường Tiểu học Điền Môn. Học bổng có thể chưa nhiều, nhưng gói ghém trọn vẹn những tấm lòng của những người con xa xứ. Và biết bao nhiêu dân làng tha hương khác đã đóng góp dựng xây nhà thờ tộc, nhà thờ Tổ nghề Kim Hoàn, đường sá,… Nhưng trong đó chẳng hề có tôi.
Có những lúc vẩn vơ, ngồi săm soi lại mình, tôi nguệch ngoạc vẽ lại tuổi thơ mình bằng nét bút chấm vào nghiên mực kí ức về quê hương.
Sỡ dĩ, tôi buồn rầu mà thố lộ như thế bởi trong tôi hôm nay có rất nhiều lí do, và một trong những lí do đó là tôi chưa làm được gì cho làng quê Kế Môn yêu dấu của tôi. Thời gian tôi gắn bó với quê hương không nhiều và không dài, nhưng nơi đó là nơi chôn nhau cắt rốn của tôi, nơi tổ tiên tôi bao đời dựng nghiệp, xây dựng và phát triển văn hóa Kế Môn. Dù thế, Kế Môn vẫn là miền kí ức không hề phôi pha theo năm tháng trong tôi. Cho nên, dù xa quê, tôi luôn đau đáu hướng về quê nhà. Quê hương từ kí ức, từ niềm yêu thương, từ niềm tự hào đã chuyển hóa thành không gian nghệ thuật trong những truyện ngắn, trong những bài thơ của tôi. Ngay từ những truyện ngắn “Giọt nắng cuối cùng”, “Sa mù”, “Ngủ vùi trong lá” viết thời trung học, đã có khuôn mặt của quê tôi. Và rồi những nhân vật trong truyện ngắn như “Sư phụ”, “Chị Đoài”, “Hùng Lừa”, “Điều hoang tưởng của lão Ngọ”, “Người đàn bà có số sát phu”,… luôn mang trong mình họ mùi đất, mùi cây trái của làng tôi, Họ nghĩ suy, nói năng bằng từ ngữ, giọng điệu quê tôi. Họ cũng nói “răng mô tê rứa”, dùng những từ “xuốt” thay từ “quét”, từ “cươi” thay từ “sân”, “cái trốt” thay cho “cái đầu”,… Nhưng điều đó chưa biến tôi thành con người hành động, tích cực gìn giữ, đóng góp cho sự tồn tại và phát triển của văn hóa làng tôi.
Nhớ ngày xưa, thời đại học Huế mà cười ra nước mắt. Người Quảng Nam thì bảo tôi, mi sống và học tập ở Đà Nẵng vậy về phe bọn tao, ơ… nhưng mà mi nói giọng mắm ruốc, không được… Còn dân Thừa Thiên thì gật gù : Mi gốc Kế Môn, nói giọng Huế bọn tao cho mi nhập hội, ơ (lại ơ)… mà mi ở Đà Nẵng, cái giọng mi lai rồi, răng mà cho mi vào hội, không được mô… Tôi giả đò buồn rầu hỏi lớ ngớ : Vậy tôi biết làm sao đây ? Có bạn nhanh miệng : “Thì mi lên đèo Hải Vân mà ở”. Chuyện vui thôi. Tôi chẳng hề lên “Đệ nhất hùng quan” để ở, để bầu bạn với trăng sao. Trong tôi, Đà Nẵng mãi là niềm yêu thương thiết tha. Bởi đây là vùng đất đã cưu mang tôi, đùm bọc tôi, che chở tôi thuở còn tuổi nhỏ phải sớm xa nhà. Và nơi đây tôi được sống giữa tình cảm yêu thương của thầy cô và bằng hữu trung học Phan Châu Trinh và bạn văn của một thời tập tành cầm bút. Chính tình cảm đó đã giúp tôi vững tin mà bước vào đời. Đà Nẵng là quê hương thứ hai của tôi. Đà Nẵng là một nửa tính cách và tâm hồn tôi. Cái nửa này hài hòa với nửa kia, nửa Đà Nẵng tương giao với nửa Kế Môn tạo nên cái “tôi” của tôi chứ không là của ai khác. Cho nên, tôi mãi gắn bó máu thịt với Đà Nẵng, những vẫn nhớ về “quê hương khuất bóng hoàng hôn” là thế.
Ngày nay, đã có rất nhiều tấm lòng Kế Môn vì một Kế Môn phát triển ngày càng văn minh, văn hóa hơn. Tôi nhớ, có lẽ không chính xác lắm, những con người quê tôi nặng tình nặng nghĩa quê hương. Đó là gia đình ông Nguyễn Thanh Côn đã bê tông hóa con đường ngang của làng. Đó là anh Hồ Huệ đã xây dựng một thư viện để con dân trong làng nâng cao kiến thức, văn hóa; hay đã xây dựng bia Tiến sĩ trong rú. Đó là Giáo sư Tiến sĩ Hồ Tá Quốc thành lập học bổng Hồ Tá Bang hỗ trợ cho các cháu cùng quê học tập. Đó là anh Đặng Minh Hiền đã lập nên website “Làng Kế Môn” vừa để thông tin, giao lưu, vừa ghi lại những truyền thống quý báu của làng. Trang web là một sân chơi nhưng cũng là mảnh đất để con người Kế Môn trang trải nỗi lòng, tình yêu và niềm tự hào về quê hương của mình qua cuộc thi viết về làng. Đáng quý và đáng trân trọng hơn nữa, trang web đã vận động, trao học bổng cho các em trường Tiểu học Điền Môn. Học bổng có thể chưa nhiều, nhưng gói ghém trọn vẹn những tấm lòng của những người con xa xứ. Và biết bao nhiêu dân làng tha hương khác đã đóng góp dựng xây nhà thờ tộc, nhà thờ Tổ nghề Kim Hoàn, đường sá,… Nhưng trong đó chẳng hề có tôi.
Có những lúc vẩn vơ, ngồi săm soi lại mình, tôi nguệch ngoạc vẽ lại tuổi thơ mình bằng nét bút chấm vào nghiên mực kí ức về quê hương.
Tôi sinh ra trên đất Kế Môn
nhưng chẳng được ăn cháo nghiền
nhưng chẳng được ăn cháo nghiền
hạt gạo quê nhà
lại ăn gạo đồng xa
đất Cầu Hai khi vừa nửa tuổi
Tôi lớn lên bên cạnh đường tàu
tuổi thơ hồn nhiên ngắm người xuôi ngược
đâu biết mình cũng sẽ ngược xuôi
khi ba tôi nằm xuống bởi viên đạn không tên
viên đạn bay ra từ nòng súng tối mù
Rồi tôi lại về quê
lại ăn gạo đồng xa
đất Cầu Hai khi vừa nửa tuổi
Tôi lớn lên bên cạnh đường tàu
tuổi thơ hồn nhiên ngắm người xuôi ngược
đâu biết mình cũng sẽ ngược xuôi
khi ba tôi nằm xuống bởi viên đạn không tên
viên đạn bay ra từ nòng súng tối mù
Rồi tôi lại về quê
lúc ấy tôi vừa lên tám.
ngày ngày tôi theo mẹ ra đồng
tưởng phận mình vỡ ra trong mặt nước
ngày ngày tôi theo mẹ ra đồng
tưởng phận mình vỡ ra trong mặt nước
ruộng sâu
Tưởng đời mình cũng mặn, nồng
Tưởng đời mình cũng mặn, nồng
như giọt mồ hôi rơi vào ruộng cạn.
Có lúc tôi rong chơi
ra bãi bồi, lên rú
lũ bạn chăn trâu làm tôi quên sách vở
chỉ nghĩ đến cánh chim trời
nhẹ nhàng đôi cánh vỗ
thả những âm tròn làm mát rượi hồn tôi
Rồi lại chia tay với làng quê
để từ đó tôi âm thầm thương nhớ
phía khuất đèo lưu giữ tuổi thơ tôi
phía đất nghèo thương lắm Kế Môn ơi.
Nhưng xét cho cùng tôi vẫn chưa làm được gì cho Kế Môn của tôi. Cho nên nhiều khi tôi tự vỗ về. Biết làm sao được. Rồi tự an ủi chính mình bằng những lời sáo rỗng, mình chỉ có một tấc lòng hoài nhớ quê nhà thôi. Hay mình không làm gì để quê hương phải xấu hổ thế cũng là yêu quê rồi. Và tôi nhận ra rằng, tự huyễn hoặc mình, đôi khi đó cũng là một nét tâm lí giúp con người bám vào cuộc đời để sống, một cuộc sống tưởng rằng bình yên.
HD, 17 - 4 - 2012
Có lúc tôi rong chơi
ra bãi bồi, lên rú
lũ bạn chăn trâu làm tôi quên sách vở
chỉ nghĩ đến cánh chim trời
nhẹ nhàng đôi cánh vỗ
thả những âm tròn làm mát rượi hồn tôi
Rồi lại chia tay với làng quê
để từ đó tôi âm thầm thương nhớ
phía khuất đèo lưu giữ tuổi thơ tôi
phía đất nghèo thương lắm Kế Môn ơi.
Nhưng xét cho cùng tôi vẫn chưa làm được gì cho Kế Môn của tôi. Cho nên nhiều khi tôi tự vỗ về. Biết làm sao được. Rồi tự an ủi chính mình bằng những lời sáo rỗng, mình chỉ có một tấc lòng hoài nhớ quê nhà thôi. Hay mình không làm gì để quê hương phải xấu hổ thế cũng là yêu quê rồi. Và tôi nhận ra rằng, tự huyễn hoặc mình, đôi khi đó cũng là một nét tâm lí giúp con người bám vào cuộc đời để sống, một cuộc sống tưởng rằng bình yên.
HD, 17 - 4 - 2012
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét