Truyện ngắn HÙNG LỪA
Dương Uyển Châu
Đúng ra, hắn là Hùng, Nguyễn Văn Hùng. Hắn là đứa con hủ mắm treo đầu giàn của cô tôi. Đúng ra, hắn không thể có cái tên ngồ ngộ, đầy ấn tượng như thế, nếu hắn không có đôi tai lá mít - đôi tai lừa. Thế là trong con mắt bạn bè và tôi, hắn nghiễm nhiên thành Hùng
Lừa. Hùng Lừa được cô tôi cưng lắm. Hắn ăn ngon mặc đẹp hơn lũ con nông dân như tôi. Tôi học chữ đực chữ cái, còn hắn chẳng đụng tay đụng chân vào việc gì. Suốt ngày, suốt tháng, suốt năm, hắn chỉ biết sách vở và cái giường ngủ. Và hình như sau hắn bao giờ cũng có cái bóng của cô tôi. Còn tôi... Thú thực, tôi cũng hơi ganh tị với hắn. Nhưng tôi thương hắn lắm, bởi hắn là em, với lại hắn rất hiền và lại học rất giỏi nữa. Hắn cũng quý tôi. Bao giớ hắn cũng dành cho tôi những sự ưu ái. Có miếng ngon nào, hắn cũng chia sớt cho tôi. Có bài tóan nào khó, hắn tận tình giảng giải cho đến khi nào tôi hiểu. Có cuốn sách nào hay, hắn đều cho tôi mượn đọc...
Những năm tháng sống cận kề hắn đẹp đẽ biết bao. Cho đến bây giờ ngồi viết những dòng này, lòng tôi không khỏi bồi hồi và da diết nhớ. Làm sao tôi quên được kỉ niệm thuở ấu thơ. Làm sao nhòa nhạt được hình bóng thằng Hùng Lừa của tôi. Và làm sao tôi có thể rứt ra khỏi trí hồn mình cái giây phút chia tay với hắn. Tôi nhớ như in buổi sáng hôm ấy. Trời vẫn chưa sáng hẳn. Cắp nách bọc áo quần lép kẹp, tôi bịn rịn lấn quấn đi bên mẹ ra bến đò Đồng Dạ. Cát dưới chân tôi không lào xào kêu lên như mọi khi mà mịn màng vì đẫm sương hay tôi cảm giác như thế cũng không biết nữa. Tôi sợ con đò lờ mờ đậu đằng kia đang vang vọng tiếng người lên xuống. Tôi sợ rời xa người mẹ già đơn chiếc của tôi. Tôi sợ xa những gì yêu thương nơi mảnh đất quê hương mình. Và tôi cũng sợ... Nhưng tôi không thể làm gì khác hơn. Tiếng chủ đò gịuc khách lên đò. Bỗng nhiên tôi nghe tiếng gọi mình khẩn thiết:
- Anh Dũng ơi! Đợi em với!
Đúng rồi. Tiếng Hùng Lừa của tôi rồi. Tôi vụt ra khỏi vòng tay ấm áp của mẹ. Hai anh em ôm chòang lấy nhau. Tôi bỗng đưa tay sờ chiếc tai lừa của Hùng và nói nhỏ:
- Hùng,...anh đi nghe.
- Đừng đi học thợ vàng, ở nhà học chữ với em. Mợ ơi, cho anh Dũng ở lại học chữ với cháu!
Hùng van vỉ trong nước mắt. Tôi ôm chặt lấy Hùng lặng thinh, nước mắt chạy quanh. Bất chợt, Hùng nói rất nhỏ như vừa nói vừa nuốt tiếng nói của mình: “Thôi, anh đi” và Hùng dúi vào tay tôi một cuốn sách.
- Em tặng anh cuốn Truyện Kiều mẹ em mới mua cho em. Anh đọc để nhớ em, để “Mai sau dù có bao giờ”!!!
YYY
Thế là tôi và hắn mỗi người mỗi phương. Cái kiếp làm thợ chẳng khấm khá gì, nên tôi luôn phải nay nơi này mai nơi khác. Từ đó, tôi ít nghe gì về Hùng Lừa của tôi. Mãi cho đến khi tôi lên Buôn Ma Thuột làm công ở hiệu vàng Kim Môn, mới biết chút ít tin tức của Hùng.
Tôi đi một năm thì cô tôi ốm nặng rồi mất. Hùng được một ngưới chú đón lên Huế nuôi ăn học. Nhưng ở đời người này thương thì người kia lại ghét. Thím Hùng cứ khinh khỉnh, mặt nặng mày nhẹ với hắn, dù hắn làm lụng việc nhà ông chú còn hơn cả đầy tớ. Mà ở đời sức chịu đựng của con người cũng có hạn. Hắn cắn răng nhẫn nhục cũng chỉ ở với chú gần một năm. Hắn bỏ đi làm thuê cho người ta, vừa làm vừa học. Nghe đâu đã đỗ Đip-lôm. Nghe đâu đang học lên Tú Tài. Nhưng đời đâu suôn sẻ như hắn tưởng. Thời lọan lạc binh lửa, hắn phải chui nhủi trốn lính. Rồi,...nghe đâu hắn bị bắt đi lao công đào binh ở tận Khâm Đức.
Nghe chuyện của Hùng khiến tôi buồn nẫu ruột. Cái số anh em tôi chẳng ra làm sao cả. Tôi bôn ba cũng không nuôi nổi mẹ. Mẹ sống trong cái nghèo và chết giữa cái khó. Còn Hùng một thân cố gắng mang vác những nhọc nhằn mà thực hiện ước mơ, nhưng chỉ chạm vào ảo ảnh. Nghĩ mà thương Hùng Lừa của tôi. Ườc gì có em ở đây để được sờ đôi tai quá khổ, nhọn hoắc của em mà gọi: Hùng Lừa. Hùng ơi, bây giờ em ở đâu?
YYY
Đất nước hòa bình. Hơn nửa đời tôi mới trở lại quê nhà vun cho mẹ một nấm đất, thắp cho mẹ một nén nhang. Tôi có ngờ đâu lại gặp Hùng. Bao năm xa, hắn cứng cáp gìa dặn rất nhiều. Anh em bên nhau mà nghe trong lòng dậy lên bao mừng tủi.
Đêm. Dưới ngọn đèn dầu leo lét. Chén rượu trên tay. Tôi và hắn hàn huyên không biết bao nhiêu chuyện. Hùng nhấp một ngụm rượu, cười cười:
- Anh tưởng Hùng Lừa của anh khổ lắm hỉ? Bây giờ em là chủ nhiệm Hợp tác xã, gánh vác trọng trách dân giao phó chớ chơi à. Trong em bây giờ không còn thằng Hùng lao công đào binh, không còn thằng Hùng tìm mọi cách ra hàng quân giải phóng, rồi được đưa ra Bắc học tập. Em chỉ mong sao làm cho dân làng mình no ấm thôi. Niềm vui của em là rứa đó.
Tôi chạm li với Hùng:
- Anh mừng cho chú. Chú làm sao cho dân nhờ là được. Ờ! Mà sao chú chưa lấy vợ. Năm mươi rồi còn gì?
Hùng rót đầy hai li, miệng bông phèng:
- Đời đã hết rượu để làm đám cưới đâu mà anh lo. Còn phụ nữ là còn lấy được vợ, phải không ông anh?
Tôi có ngờ đâu đêm ầy là lần cuối cùng tôi gặp hắn. Tôi trở lại Buôn Ma Thuột hơn một tháng thì nhận được tin Hùng mất vì bệnh ung thư. Tin đến quá muộn. Khi tôi về, Hùng đã nằm dưới ba tấc đất. Đứng trước mộ Hùng, tôi câm lặng cúi đầu. Tôi cảm thấy mình có lỗi với hắn. Anh em còn ai? Sao hắn không báo tin cho tôi để tôi gần gũi sớm hôm với hắn. Sao không ai báo tin cho tôi để tôi được nhìn mặt hắn lần cuối cùng và tiễn hắn về nơi an nghỉ. Tôi quì xuống, xoa xoa nấm mộ cát trắng và vô tình viết hai chữ in hoa: Hùng Lừa to tướng. Tôi lại nghĩ đến đôi tai lừa của Hùng. Và tôi khấn nguyện:
- Hùng ơi! Anh sẽ dựng bia cho em. Để “Mai sau dù có bao giờ”.
Dương Uyển Châu
1-2000
Lừa. Hùng Lừa được cô tôi cưng lắm. Hắn ăn ngon mặc đẹp hơn lũ con nông dân như tôi. Tôi học chữ đực chữ cái, còn hắn chẳng đụng tay đụng chân vào việc gì. Suốt ngày, suốt tháng, suốt năm, hắn chỉ biết sách vở và cái giường ngủ. Và hình như sau hắn bao giờ cũng có cái bóng của cô tôi. Còn tôi... Thú thực, tôi cũng hơi ganh tị với hắn. Nhưng tôi thương hắn lắm, bởi hắn là em, với lại hắn rất hiền và lại học rất giỏi nữa. Hắn cũng quý tôi. Bao giớ hắn cũng dành cho tôi những sự ưu ái. Có miếng ngon nào, hắn cũng chia sớt cho tôi. Có bài tóan nào khó, hắn tận tình giảng giải cho đến khi nào tôi hiểu. Có cuốn sách nào hay, hắn đều cho tôi mượn đọc...
Những năm tháng sống cận kề hắn đẹp đẽ biết bao. Cho đến bây giờ ngồi viết những dòng này, lòng tôi không khỏi bồi hồi và da diết nhớ. Làm sao tôi quên được kỉ niệm thuở ấu thơ. Làm sao nhòa nhạt được hình bóng thằng Hùng Lừa của tôi. Và làm sao tôi có thể rứt ra khỏi trí hồn mình cái giây phút chia tay với hắn. Tôi nhớ như in buổi sáng hôm ấy. Trời vẫn chưa sáng hẳn. Cắp nách bọc áo quần lép kẹp, tôi bịn rịn lấn quấn đi bên mẹ ra bến đò Đồng Dạ. Cát dưới chân tôi không lào xào kêu lên như mọi khi mà mịn màng vì đẫm sương hay tôi cảm giác như thế cũng không biết nữa. Tôi sợ con đò lờ mờ đậu đằng kia đang vang vọng tiếng người lên xuống. Tôi sợ rời xa người mẹ già đơn chiếc của tôi. Tôi sợ xa những gì yêu thương nơi mảnh đất quê hương mình. Và tôi cũng sợ... Nhưng tôi không thể làm gì khác hơn. Tiếng chủ đò gịuc khách lên đò. Bỗng nhiên tôi nghe tiếng gọi mình khẩn thiết:
- Anh Dũng ơi! Đợi em với!
Đúng rồi. Tiếng Hùng Lừa của tôi rồi. Tôi vụt ra khỏi vòng tay ấm áp của mẹ. Hai anh em ôm chòang lấy nhau. Tôi bỗng đưa tay sờ chiếc tai lừa của Hùng và nói nhỏ:
- Hùng,...anh đi nghe.
- Đừng đi học thợ vàng, ở nhà học chữ với em. Mợ ơi, cho anh Dũng ở lại học chữ với cháu!
Hùng van vỉ trong nước mắt. Tôi ôm chặt lấy Hùng lặng thinh, nước mắt chạy quanh. Bất chợt, Hùng nói rất nhỏ như vừa nói vừa nuốt tiếng nói của mình: “Thôi, anh đi” và Hùng dúi vào tay tôi một cuốn sách.
- Em tặng anh cuốn Truyện Kiều mẹ em mới mua cho em. Anh đọc để nhớ em, để “Mai sau dù có bao giờ”!!!
YYY
Thế là tôi và hắn mỗi người mỗi phương. Cái kiếp làm thợ chẳng khấm khá gì, nên tôi luôn phải nay nơi này mai nơi khác. Từ đó, tôi ít nghe gì về Hùng Lừa của tôi. Mãi cho đến khi tôi lên Buôn Ma Thuột làm công ở hiệu vàng Kim Môn, mới biết chút ít tin tức của Hùng.
Tôi đi một năm thì cô tôi ốm nặng rồi mất. Hùng được một ngưới chú đón lên Huế nuôi ăn học. Nhưng ở đời người này thương thì người kia lại ghét. Thím Hùng cứ khinh khỉnh, mặt nặng mày nhẹ với hắn, dù hắn làm lụng việc nhà ông chú còn hơn cả đầy tớ. Mà ở đời sức chịu đựng của con người cũng có hạn. Hắn cắn răng nhẫn nhục cũng chỉ ở với chú gần một năm. Hắn bỏ đi làm thuê cho người ta, vừa làm vừa học. Nghe đâu đã đỗ Đip-lôm. Nghe đâu đang học lên Tú Tài. Nhưng đời đâu suôn sẻ như hắn tưởng. Thời lọan lạc binh lửa, hắn phải chui nhủi trốn lính. Rồi,...nghe đâu hắn bị bắt đi lao công đào binh ở tận Khâm Đức.
Nghe chuyện của Hùng khiến tôi buồn nẫu ruột. Cái số anh em tôi chẳng ra làm sao cả. Tôi bôn ba cũng không nuôi nổi mẹ. Mẹ sống trong cái nghèo và chết giữa cái khó. Còn Hùng một thân cố gắng mang vác những nhọc nhằn mà thực hiện ước mơ, nhưng chỉ chạm vào ảo ảnh. Nghĩ mà thương Hùng Lừa của tôi. Ườc gì có em ở đây để được sờ đôi tai quá khổ, nhọn hoắc của em mà gọi: Hùng Lừa. Hùng ơi, bây giờ em ở đâu?
YYY
Đất nước hòa bình. Hơn nửa đời tôi mới trở lại quê nhà vun cho mẹ một nấm đất, thắp cho mẹ một nén nhang. Tôi có ngờ đâu lại gặp Hùng. Bao năm xa, hắn cứng cáp gìa dặn rất nhiều. Anh em bên nhau mà nghe trong lòng dậy lên bao mừng tủi.
Đêm. Dưới ngọn đèn dầu leo lét. Chén rượu trên tay. Tôi và hắn hàn huyên không biết bao nhiêu chuyện. Hùng nhấp một ngụm rượu, cười cười:
- Anh tưởng Hùng Lừa của anh khổ lắm hỉ? Bây giờ em là chủ nhiệm Hợp tác xã, gánh vác trọng trách dân giao phó chớ chơi à. Trong em bây giờ không còn thằng Hùng lao công đào binh, không còn thằng Hùng tìm mọi cách ra hàng quân giải phóng, rồi được đưa ra Bắc học tập. Em chỉ mong sao làm cho dân làng mình no ấm thôi. Niềm vui của em là rứa đó.
Tôi chạm li với Hùng:
- Anh mừng cho chú. Chú làm sao cho dân nhờ là được. Ờ! Mà sao chú chưa lấy vợ. Năm mươi rồi còn gì?
Hùng rót đầy hai li, miệng bông phèng:
- Đời đã hết rượu để làm đám cưới đâu mà anh lo. Còn phụ nữ là còn lấy được vợ, phải không ông anh?
Tôi có ngờ đâu đêm ầy là lần cuối cùng tôi gặp hắn. Tôi trở lại Buôn Ma Thuột hơn một tháng thì nhận được tin Hùng mất vì bệnh ung thư. Tin đến quá muộn. Khi tôi về, Hùng đã nằm dưới ba tấc đất. Đứng trước mộ Hùng, tôi câm lặng cúi đầu. Tôi cảm thấy mình có lỗi với hắn. Anh em còn ai? Sao hắn không báo tin cho tôi để tôi gần gũi sớm hôm với hắn. Sao không ai báo tin cho tôi để tôi được nhìn mặt hắn lần cuối cùng và tiễn hắn về nơi an nghỉ. Tôi quì xuống, xoa xoa nấm mộ cát trắng và vô tình viết hai chữ in hoa: Hùng Lừa to tướng. Tôi lại nghĩ đến đôi tai lừa của Hùng. Và tôi khấn nguyện:
- Hùng ơi! Anh sẽ dựng bia cho em. Để “Mai sau dù có bao giờ”.
Dương Uyển Châu
1-2000
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét