Nguyễn Đình Chiểu là một nhà thơ lớn,
một thầy thuốc đạo đức và một nhà sư phạm mẫu mực. Cuộc đời ông là một chuỗi
dài bi kịch: bi kịch cá nhân và bi kịch nước mất. Nguyễn Đình Chiểu đã ngạo nghễ vượt lên
những khó khăn của đời mình mà sống vì đất nước nhân dân bằng quan niệm nhân
sinh tích cực. Chính vì vậy, thơ văn
của ông tỏa sáng bao nhiêu là vẻ đẹp: vẻ
đẹp của quan niệm văn chương, lí tưởng thẩm mĩ, tư tưởng nhân nghĩa và phong
cách nghệ thuật. Có thể nói, ông là một trí thức có nhân cách cao cả, không
chấp nhận thỏa thuận với cái xấu cái ác, không thỏa hiệp với chính mình. Tất cả
ông đã dồn vào văn chương để những trang thơ phập phồng hơi thở của sự sống,
tràn đầy sức căng của thời đại và âm vang tiếng lòng yêu nước thiết tha của
ông.
Là một người cầm bút, Nguyễn Đình Chiểu đã nêu rõ quan điểm nghệ thuật làm kim chỉ nam cho ngòi bút của mình. Trước hết đó là quan niệm về cái đẹp hình thức nghệ thuật:
Cẩm văn thêu dệt đời, đời chuộng,
Mùi
đạo trau giồi bữa, bữa no.
Gặp
thuở mây xanh siêng đọc sách,
Mỗi
câu đều hưởng phúc trời cho.
(Sĩ)
Khi
nói đến tài học của Lục Vân Tiên:
Văn đà khởi phụng đằng giao
(Văn đẹp như con phượng trỗi dậy, con
rồng bay cao)
(Lục
Vân Tiên)
Khi
Lục Vân Tiên đánh cướp Phong Lai cứu Kiều Nguyệt Nga, họ trao thơ cho nhau:
Nguyệt Nga ứng tiếng xin hầu,
Xuống tay liền đã tám câu năm vần.
(...)
Vân
Tiên xem thấy ngạt ngào,
Ai ngờ sức gái tài cao bực này!
Đã
mau mà laị thêm hay,
Chẳng phen Tạ nữ cũng tày Từ phi.
Thơ
ngâm dũ xuất dũ kì,
Cho hay tài gái kém gì tài trai.
(Lục Vân Tiên)
Trong Ngư Tiều y thuật vấn đáp, ở phần Lung khởi, Ngư-Tiều gặp nhau cùng
làm thơ:
Ngư rằng: vốn thiệt thầy nhu,
Lòng cưu gấm vóc, lại giàu lược thao.
Nói
ra vàng đá chẳng xao,
Văn ra: dấy phụng, rời giao tưng bừng.
(Ngư Tiều y thuật vấn đáp)
Nguyễn
Đình Chiểu chú trọng cái hay,
cái đẹp trong thơ văn; ông đã ví thơ văn như gấm thêu, vóc dệt, như rồng
bay
phượng múa, như vàng, như đá, càng viết càng hay càng lạ. Và sau đó
là cái đẹp của nội dung tư tưởng. Cái đẹp trong thơ văn Nguyễn
Đình Chiểu không phải là cái đẹp cái hay của hình thức mà cái đẹp, cái
hay ấy
phải bắt nguồn từ nội dung đạo đức, từ hương thơm ngạt ngào của thơ văn,
cái
đẹp là cái đẹp của vàng, cái rắn là cái rắn của đá.
Trong Ngư Tiều y thuật vấn đáp đọan Nhập môn, Đạo dẫn, Ngư, Tiều xướng
họa, Nguyễn Đình Chiểu viết:
Noi theo đạo cũ Kim Liên,
Cùng nhau xướng họa đoản thiên nối bài.
Mặc
dầu hai chữ tả hoài,
Việc xưa, được mất, bởi ai, cớ gì?
Người
xưa sao có thị phi,
Đạo trời sao có thịnh suy chẳng đồng?
Với Nguyễn Đình Chiểu, nội dung thơ
văn rộng bao la và rất thẳm sâu. Văn chương chứa đựng nhiều lớp nội dung: nhân
sinh quan, triết lí về cuộc đời, về con người, về lẽ phải trái, về quá trình
lịch sử... Đối chiếu quan niệm thẩm mĩ này với
cuộc đời và con người của ông, ta thấy có sự thống nhất giữa nhân sinh quan và
thẩm mĩ quan. Nhà thơ từng viết:
Trọn đời một tấm lòng son,
Chí lăm trả nợ nước non cho rồi.
(Lục Vân Tiên)
Đạo đức là thức ăn tinh thần, là môi
trường sống, là không khí của Nguyễn Đình Chiểu hít thở. Đạo đức nhân nghĩa là
máu huyết, là thịt da con người Nguyễn Đình Chiểu. Thực tiễn lịch sử xã hội
càng làm cho đạo đức nhân nghĩa ấy sâu thẳm hơn. Nếu thời Nguyễn Du:
Trải qua một cuộc bể dâu,
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng.
(Truyện Kiều)
thì
thời Nguyễn Đình Chiểu:
Trước đèn xem truyện Tây Minh,
Gẫm cười hai chữ nhân tình éo le.
(Lục Vân Tiên)
nên:
- Nói ra thì nước mắt trào,
Tấm lòng ưu thế biết bao giờ rồi...
-
Đương thuở tinh chiên dặm bấy đường,
Trăm
nhà nấy trọn dấu thư hương.
Nguyễn Đình Chiểu say mê đạo đức:
Mùi đạo trau giồi bữa, bữa no
(Sĩ)
Thư
gửi cho em: "Nghe nhiều kẻ tiếng
đời nhơ bợn, muốn em cho mùi đạo thơm tho".
Mấy ngày theo đạo truân truân,
Như mình ở giữa gió xuân mưa hòa.
Thiết tha cao đẹp là hai câu:
Sự đời thà khuất đôi tròng thịt,
Lòng
đạo xin tròn một tấm gương.
Cái lí tưởng say mê đạo đức ấy xuất
phát từ một lòng nhân đạo sâu sắc, bao gồm lòng yêu nước thương nhà, yêu thương
con người sâu sắc:
Mến nghĩa bao đành làm phản nước,
Có
nhân nào nỡ phụ tình nhà.
(Đạo người)
Nguyễn Đình Chiểu còn quan niệm nhà văn phải lấy văn chương làm vũ khí bảo
vệ đạo lí. Thơ văn theo quan niệm của Nguyễn
Đình Chiểu không phải là một thứ phù phiếm ngâm hoa vịnh nguyệt mà phải có tác
dụng bổ ích cho con người, cho xã hội, qua việc biểu dương những điều hay, phê
phán việc dở, như tinh thần "bao biếm" của Khổng Tử khi viết sách
Xuân Thu:
Học theo ngòi bút chí công,
Trong thơ cho ngụ tấm lòng Xuân thu.
Mở
đầu Lục Vân Tiên, Nguyễn Đình Chiểu
viết:
Hỡi ai lẳng lặng mà nghe,
Dữ răn việc trước, lành dè thân sau.
Và lại viết tiếp:
Bấy lâu cửa thánh gần kề,
Đã tươi khí tượng, lại xuê tinh thần.
Thơ văn phải có tinh chiến đấu,
chiến đấu cho chính nghĩa, cho đạo đức, chống lại gian tà:
Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm,
Đâm
mấy thằng gian bút chẳng tà.
(Than đạo)
Nét mực tu kinh ngăn đứa loạn.
(Vịnh Khổng Tử)
Về tư tưởng nghệ thuật Nguyễn Đình Chiểu đề cao tư tưởng nhân nghĩa.Thơ văn của Nguyễn Đình Chiểu đẹp
tựa như ánh trăng rằm vằng vặc tỏa soi rạng ngời trên bầu trời Nam bộ. Cái đẹp
của Nguyễn Đình Chiểu là rất xưa, nhưng cũng rất hiện đại, rất Đồng Nai; nhưng
cũng rất Việt Nam.
Nó vừa là một lí tưởng đạo đức, nhưng cũng vừa là một cảm hứng chủ đạo, là
phong cách nghệ thuật trong sáng tác của nhà thơ.
Khái niệm nhân nghĩa không nằm trong
cách hiểu của Nho giáo mà nằm ở tiếng nói chung của những tín hiệu thẩm mĩ,
nghĩa là trong cấu trúc chung của tác phẩm, trong phong cách bao trùm sáng tác
của nhà thơ. Nguyễn Đình Chiểu nhấn mạnh trung hiếu tiết nghĩa, nhưng Lục Vân
Tiên bỏ trung tìm nghĩa. Nghĩa mang tính nhân dân và truyền thống dân tộc. Để truyền sứ điệp này, Nguyễn Đình
Chiểu vừa dùng ngôn ngữ nhân dân vừa dùng khái niệm Nho giáo. Nhân vật của ông
luôn ở trong tình huống lựa chọn căng thẳng:
Lựa chọn của Vương Tử Trực giữa Lục Vân Tiên với Võ Thể Loan:
Vợ Tiên là Trực chị dâu,
Chị dâu em bạn có đâu lỗi nghì.
Lựa chọn con đường tù tội với phi nghĩa
bất dũng của Hớn Minh khi bẻ chân Đặng Sinh - lựa chọn nghĩa hiệp.
Vật chàng ngã xuống bẻ đi một giò.
Lựa chọn giằng xé nhưng quyết liệt giữa
thủy chung với người yêu nghĩa hiệp với uy lực của triều đình của Kiều Nguyệt
Nga.
Lựa chọn của Kì Nhân Sư - mò mẫm tìm nhau
trong đêm tối lịch sử - giữa con đường danh lợi đầy phản bội nhơ nhuốc với gian
khổ trăm bề.
Lựa chọn giữa nghĩa dân: "côi cút
làm ăn" với xả thân vì nghĩa lớn.
Lựa chọn của Trương Định, Phan Tòng giữa
lòng dân lớp lớp "đón ngăn mấy dặm mã tiền" và cái uy lực của triều
đình "thiên tử chiếu".
Dưới
ngòi bút của Đồ Chiểu, sức hút của cái đẹp vì nghĩa cảm kích sâu xa đến rơi
nước mắt, sức đẩy của sự phi nghĩa gây một nỗi căm hận đến mức phải tuốt gươm
ra mà hành nghĩa. Nghĩa của Nguyễn Đình Chiểu khơi sâu mạch trữ tình nhân đạo
đầy chính nghĩa, tăng kịch tính của cái đẹp "ngang tàng". Nghĩa tạo
ra những điển hình tiêu biểu, những pho tượng nghệ thuật bất hủ sống mãi với
truyền thống bất khuất của dân tộc.
Phép đối
ứng của văn biền ngẫu tạo ra cái nghĩa xung phong, vô điều kiện, tạo ra cái bi
hợp lí, phức tạp làm cơ sở cho cái hùng. Cái hùng có cái thế áp đảo cái bi. Trong
Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, cái bi
hùng, cái còn mất dồn đuổi nhau như lớp lớp sóng dồn để biểu hiện cái đau: gốc
từ quý dân yêu nước - và khí phách hiên ngang kiên cường luôn đứng ở nhịp mạnh.
Nghĩa
đem đến cho nhịp đi của bài văn tế xưa một nét lạ: trong lúc văn tế cổ điển
thường đem đến sự vô cùng của cái chết, kết thúc hữu hạn của cuộc đời để gây
đau xót, thì Đồ Chiểu, từ khoảnh khắc của cái chết mà mở ra vĩnh cửu sinh
thành.
Sống đánh giặc, chết cũng đánh giặc...
Ôi,
một trận khói tan ngàn năm tiết rỡ.
(Văn tế
nghĩa sĩ Cần Giuộc)
Nghĩa
còn là băng qua bi kịch về tinh thần, về tình cảm,... Nghĩa còn là lòng trung
thực thủy chung vô hạn, thủy chung với bạn, với ân nhân, với người yêu, với bố
mẹ, với tổ tiên dân tộc. Từ Lục Vân Tiên đến Ngư Tiều ngư thuật vấn đáp, các nhân vật luôn ở trong một quá trình
đấu tranh cho chung thủy. Chính điều đó tạo xương sống cho nhân vật, làm nổ
tung mọi biến cố, tạo sức bền dai cho mọi mối tình, đưa nhân vật vượt qua mọi
thử thách. Nghĩa ở đây là tình nghĩa, ân nghĩa chứ không phải lễ nghĩa. Chuyện Lục Vân Tiên là một lời hẹn ước, Ngư Tiều y thuật vấn đáp là một lời hẹn ước. Có bao nhiêu chỗ hẹn
là có bấy nhiêu chất thơ nồng cháy bâng khuâng.
Đạo trời có thịnh có suy,
Hết cơn bỉ bể, đến kì thái hanh.
Hay:
Sau thời Thúc Quý tan mây,
Sông trong
biển lặng mắt thầy sáng ra
(Ngư Tiều y thuật vấn đáp)
Nguyễn Trãi: Nghĩa [ đại nghĩa; nhân [
chí nhân.
Đem đại nghĩa để thắng hung tàn;
Lấy
chí nhân để thay cường bạo.
(Đại cáo bình Ngô)
Cái nghĩa của Nguyễn Đình Chiểu vừa
là một nguyên lí duy nhất, vừa là phương châm xử thế, vừa là cảm hứng tạo chủ
đạo trong sáng tác của ông.
Nguyễn Đình Chiểu cũng đề cao, ngợi ca chủ nghĩa
anh hùng. Nguyễn
Đình Chiểu là một thư sinh đánh giặc bằng ngòi bút (Chí cánh thư sinh không bút trận - Tùng Thiện Vương), vì thế trang
thơ của ông lấp lánh và dạt dào tư tưởng yêu nước. Nhưng trong vườn thơ của ông,
bên cạnh những đóa hoa hướng dương rời rợi sắc vàng thắm tình nước tình dân,
còn có những bông hoa rực rỡ sắc đỏ anh hùng - chủ nghĩa yêu nước anh hùng của
thời đại ông. Cho nên, không ngẫu nhiên chút nào trong thơ ông lại vang lên
những lời ngợi ca, kêu gọi hành động anh hùng khi đất nước đắm chìm giữa khói
lửa chiến tranh.
Một trận trải gan trời đất thấy,
So
xưa nào thẹn tiếng anh hùng.
(Thơ điếu Phan Tòng, I)
Hỡi trang dẹp loạn rày đâu vắng,
Nỡ
để dân đen mắc nạn này.
(Chạy giặc)
Mũi giáo Thi Toàn đừng để sét,
Lưỡi
gươm Dự Nhượng phải toan giồi.
(Thơ điếu Trương Định, XII)
Quan niệm chủ nghĩa anh hùng yêu
nước của Nguyễn Đình Chiểu có cơ sở thực tiễn khách quan đã được thực tiễn
"đóng triện" xác nhận. Thực tiễn đó là lòng yêu chính ghét tà, là
phẩm chất hiên ngang, khẳng khái dũng cảm, bất khuất của chính Nguyễn Đình
Chiểu và của số đông quần chúng bấy giờ. Có thể tóm lược ba cơ sở thực tiễn
hình thành quan niệm anh hùng trong thơ văn của Nguyễn Đình Chiểu. Một là: từ
trải nghiệm những cay đắng mà ông có những suy tưởng về đạo lí và quyết tâm
phấn đấu bảo vệ đạo lí. Cả cuộc đời gần như ông là một chứng nhân - một sự chứng
kiến bằng tâm hồn nhạy cảm - bi kịch của dân tộc, nên trút vào thơ cảm hứng
ngợi ca, khuyến khích người đứng lên cứu nước. Hai là: ông là người lí tưởng:
"Sống thờ vua thác cũng thờ vua". Nguyễn Đình Chiểu gần Nguyễn Công
Trứ (không quân thần phụ tử đếch ra người)
nhưng xa Lê Hữu Trác - Hải Thượng Lãn ông (Ta
há chịu đem mình bán rao ư?). Dù thế nào, Nguyễn Đình Chiểu vẫn tha thiết
"trí quân trạch dân":
Đã cam chút phận dở dang,
"Trí quân" hai chữ mơ màng
năm canh;
Đã
cam lỗi với thương sinh,
"Trạch dân" hai chữ luống doanh ở
lòng.
(Ngư Tiều y thuật vấn đáp)
Như vậy, Nguyễn Đình Chiểu suốt đời
phụng sự cho lí tưởng vì dân vì nước chứ không phải chủ yếu là vì vua. Tư tưởng
tôn quân chỉ là phương tiện chứ không là cứu cánh. Ba là: Nguyễn Đình Chiểu là
con người chiến đấu không mệt mỏi. Bốn mươi năm sống trong cảnh mù lòa, ông kết
bạn với những trí thức yêu nước Nam bộ, đóng góp cho bức tranh kháng chiến
chống Pháp buổi đầu những trang thơ đẹp, những bài văn tế hừng hực lửa yêu nước
anh hùng, dậy vang cảm hứng bi tráng, cảm hứng trữ tình thống thiết. Vây nên,
Tùng Thiện Vương cảm phục đề thơ:
Quốc ngữ danh đề Manh Tả sử,
Quỷ
hùng ca đáo Khuất Bình ai. (1)
(Quốc ngữ nêu danh như Manh Tả,
Giọng
thơ bi tráng tựa Khuất Bình)
Chủ nghĩa anh hùng của Nguyễn Đình
Chiểu, trước hết được khơi mạch từ suối nguồn thơ văn yêu nước Nam Bộ. Từ thế
kỉ XVIII, mảnh đất cực Nam của Tổ quốc hiện ra thống nhất và tươi đẹp:
Yêu nước nhà phải gài then chốt,
Đề
phòng khi nhảy nhót binh đao.
(Mạc Thiên Tích - Hà Tiên thập vịnh cảnh)
Con người Nam bộ đau xé lòng trước đất nước
bị phân chia thời Lê - Mạc, Trịnh Nguyễn:
Thùy phân thùy hợp mạt chi hà,
Nam Bắc tòng
lai thị nhất gia.
(Lê Đản - Nam hà tiệp lục)
(Ai chia ai hợp biết đâu mà,
Nam
Bắc từ lâu vẫn một nhà.)
Và chủ nghĩa anh hùng của Nguyễn
Đình Chiểu còn toát ra từ tính cách con người Nam bộ: cứng cỏi, thẳng thắn, dám
nói dám làm. Cái dũng khí cọng với tinh thần yêu nước của người dân Nam bộ càng
được nâng cao, mài giũa từ tiếng súng xâm lược của thực dân Pháp. Hồ Huân
Nghiệp trước lúc chịu rơi đầu vẫn cất giọng sang sảng:
Kiến nghĩa ninh cam bất dũng vi,
Toàn
bằng trung hiếu tác nam nhi.
(Thấy nghĩa lòng đâu dám hững hờ,
Làm
trai trung hiếu quyết tôn thờ.)
Thủ khoa Huân bị giặc đóng gông đi
xử tử vẫn dõng dạc đàng hoàng:
Hai bên thiên hạ thấy hay không?
Một
gánh cương thường há phải gông.
(Mang gông)
Trong Lục Vân Tiên, qua những hình tượng cụ thể, nhân vật anh hùng không
một phút ngừng suy tư, trăn trở trước "nạn dân ách nước". Đó là ông
Quán, Vương Tử Trực, Kiều Nguyệt Nga,... nhưng tập trung nổi bật là Hớn Minh và
Lục Vân Tiên đã giúp dân qua những cơn khốn khó. Hớn Minh bẻ giò Đặng Sinh, Lục
Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga. Họ dốc lòng giúp nước:
Làm trai trong cõi thế gian,
Phù đời giúp nước phơi gan anh hào.
Giúp
nước là đánh giặc Ô Qua cứu nước. Với Hớn Minh và Lục Vân Tiên, cứu cánh của trí
và dũng trước hết là vì dân, vì nước, đồng thời cũng vì vua. Họ là những anh hùng
trọng nghĩa khinh tài: "Dốc lòng nhân nghĩa há chờ trả ơn" (lời ông
Ngư), "Làm ơn mà lại trông hồi sao đang" (lời ông Tiều), "Làm ơn
há để cho người trả ơn" (lời Lục Vân Tiên). Chủ nghĩa anh hùng của Nguyễn
Đình Chiểu khác biệt với chủ nghĩa anh hùng của Nguyễn Công Trứ: "Không
công danh thà nát với cỏ cây", "Chí những toan xẻ núi lấp sống / Làm
nên đấng anh hùng đâu đấy tỏ".
Như vậy, chủ nghĩa anh hùng theo
quan niệm của Nguyễn Đình Chiểu trong Lục Vân Tiên có nội dung nhân dân, rất
tích cực tiến bộ bởi nó khẳng khái, vô tư. Trong những tác phẩm sau Lục Vân Tiên, chủ nghĩa anh hùng của
Nguyễn Đình Chiểu có sự điều chỉnh và bổ sung phù hợp với tinh thần của thời
đại đánh Pháp. Đánh giặc cứu nước là mục đích, là tư tưởng cảo cả của người anh
hùng: "Sống đánh giặc, thác cũng đánh giặc". Cho dù, trong những tác phẩm này,
Nguyễn Đình Chiểu có nhắc đến vua, nhưng không nói đến chữ trung. Ông đứng về
phía nhân dân, những trí thức yêu nước sẵn sàng dấn thấn hi sinh vì nước. Ông
đồng tình với không khí chống lại chiếu chỉ của vua: "Bởi lòng chúng chẳng
nghe thiên tử chiếu" (Thơ điếu Trương Định). Ông thất vọng, nhạt phai niềm
tin vào triều đình nhà Nguyễn:
Trông tin quan như trời hạn trông mưa
(Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc)
Mây giăng ải Bắc trông tin nhạn,
Ngày
xế non Nam
bặt tiếng hồng.
(Xúc cảnh)
Ông
thường nhắc đến nhân dân với giọng điệu trân trọng, trìu mến và tự hào:
"Tiếc non nước ấy, nhân dân dường ấy", "Dân sa nước lửa bấy
chầy", "lòng dân trời tỏ", "hồn phách mất, tiếng dân nào
mất". Đây là một chủ nghĩa anh hùng vận động theo hướng dân chủ. Cho nên,
người anh hùng trong thơ văn Nguyễn Đình Chiểu là những anh hùng nghĩa dân (Văn
tế nghĩa sĩ Cần Giuộc), những anh hùng trí thức vâng theo mệnh lệnh của nhân
dân mà chiến đấu hi sinh (Bởi lòng chúng chẳng nghe thiên tử chiếu, đón ngăn
mấy dặm mã tiền; Theo bụng dân phải chịu tiếng quân phù, gánh vác một vai khổn
ngoại), (Bằng son ứng nghĩa thắm lòng dân - Thơ điếu Trương Định, II). Họ được
nhân dân yêu thương đùm bọc: "Thương quan tướng, nhắc quan tướng chiu chít
như gà...", "Lớn nhỏ trong
lòng thảy mến trông".
Nguyễn
Đình Chiểu đã đề cá tính sáng tạo của monhf vào thơ văn.
Những tác phẩm của ông in đậm dấu ấn phong cách nghệ thuật
của ông.
Về phương diện nội dung, nội dung thơ văn Nguyễn Đình Chiểu là nội dung trữ tình đạo lí và trữ tình
yêu nước. Nhà thơ mù xứ Đồng Nai đã cất tiếng
khóc vĩ đại trước người anh hùng Trương Định:
-Nói ra thì nước mắt trào,
Tấm lòng ưu thế biết bao giờ rồi!
-Ôi!
Làm ra cớ ấy, tạo hóa ghét nhau chi!
Nhắc
đến đoạn nào, anh hùng rơi lụy mãi!
và
ngợi ca Phan Tòng:
Làm người trung nghĩa đáng bia son,
Đứng
giữa càn khôn tiếng chẳng mòn.
Về thể loại, ông đã phát huy vẻ đẹp của thể loại văn tế bao gồm văn tế viết theo thể Đường phú hay thể thơ thất ngôn bát cú..
Về giọng điệu, thơ văn ông có giọng điệu bi tráng thống thiết.
- Trời Bến Nghé mây mưa sùi sụt, thương đấng
anh hùng
gặp bước gian truân;
Đất
Gò Công cây cỏ ủ ê, cám niềm thần tử hết lòng trung ái.
(Văn tế Trương Định)
- Man mác trăm chiều tâm sự, sống những lo
trả nợ cho đời;
Phôi
pha một mảnh hình hài, thác rồi bỏ làm phân cho đất.
(Văn tế nghĩa sĩ trận vong Lục tỉnh)
Về ngôn ngữ, thơ văn ông sử dụng nhuần nhị ngôn ngữ đậm chất dân gian, Nam bộ. Nguyễn Đình Chiểu viết cho ai,
ông viết cho nhân dân. Vì hình thức nghệ thuật của thơ văn ông thật giản dị,
đặc biệt là ngôn ngữ. Nguyễn Đình Chiểu là người đầu tiên đem tiếng nói thông
thường của dân, nhất là của nhân dân lao động vào thơ. Cú pháp đảo ngược:
-Vợ
tiên là Trực chị dâu.
-Nói rồi bức tượng vai mang.
(Lục Vân
Tiên)
Điển tích
trong thơ Nguyễn Đình Chiểu là chủ nghĩa nhân văn cổ đại phương Đông đã thấm
sâu trong tâm hồn ông. Cho nên thơ văn ông đã
hòa hợp được tinh thần thực tế hiện đại của xã hội Việt Nam lúc bấu giờ
đang đấu tranh chống ngoại xâm với cả cái tinh hoa của nền văn minh cổ đại.
Điển cố trong thơ văn ông khiến thơ giàu hình tượng, hàm súc và thấm đẫm chất
trữ tình.
Ngôn ngữ thơ Nguyễn Đình Chiểu là
ngôn ngữ mộc mạc, không gọt giũa cứ theo cách nghĩ thẳng đuột mà bung ra. Vân
Tiên, con người trực tính thấy bọn cướp núi Phong Lai là xông vào tả xung hữu
đột, đánh một gậy "thác đà mạng vong". Hớn Minh cũng tính thẳng ngay
nên gặp Đặng Sinh hiếp hãm con gái người ta, vật ngay xuống bẻ giò. Nguyễn Đình
Chiểu do đó cũng chẳng màu mè, cứ ngôn ngữ đời thường mà tả:
Tôi bèn nổi giận một khi,
Vật chàng xuống đó bẻ đi một giò
Hay Vương Tử Trực châm biếm Thể
Loan:
Ca ca sao chẳng chịu đi,
Về cho tẩu tẩu để khi xách giày!
Hoặc Vân Tiên nói với Nguyệt Nga:
Vân Tiên ngó lại rằng: "Ừ!",
Làm thơ cho kịp chừ chừ chớ lâu.
Ngôn ngữ của Nguyễn Đình Chiểu,
"Một ngôn ngữ bình dân, thông dụng, chân thực, thực tế, có cái vị thơm,
cái hương lành của nó, cái hương vị văn miền Nam" (Xuân Diệu). Tả Lục
ông thấy bức tượng con mình: Lục ông một
buổi ngồi nhìn. Tả nỗi lòng đau Vân Tiên không về kịp để thấy phút cuối đời
của mẹ:
Tiên rằng: Con Bắc mẹ Nam,
Nước non vòi vọi đã cam lỗi nghì.
Vân
Tiên và Nguyệt Nga tâm tình thì:
Tiên rằng: - Nàng tính thế nào?
Nàng rằng: Anh hãy về trào tâu lên.
Nhưng cụ Đồ Chiểu không có những câu
thơ trữ tình tâm trạng đạt đến sự điêu luyện làm nao lòng người:
- Nghĩ mình mà ngán cho mình,
Chữ
ân chưa trả, chữ tình đã vương.
Nặng nề hai chữ uyên ương,
Dây
sầu ai khéo vấn vương vào lòng.
-
Hữu tình chi bấy Ngưu lang,
Tấm
lòng chức nữ vì chàng mà nghiêng.
Thơ của cụ Đồ xứ Ba Tri cũng ngân
nga nhạc điệu. Có khi nhạc vang ra từ sự
láy lại theo điệu thơ thập thủ liên hoàn:
Trạnh lòng trăm họ khóc quan Phan
Quan
Phan thác trọn chữ trung thần.
(Thơ điếu Phan Tòng)
Nhạc điệu đắp đổi âm thanh xoắn xuýt
từ phép đối:
Vì nước tấm thân đã gởi, còn mất cũng cam,
Giúp
đời cái nghĩa đáng làm, nên hư nào ngại.
(Điếu Trương Định)
Núi đất nửa năm ngăn giặc,
Giáo
trên ngàn dặm đánh Tây.
(Văn tế Trương Định)
Nhạc tỏa ra từ điệu ca dao bàng bạc
như quyện lấy tâm hồn người đọc:
- Ai ơi lẳng lặng mà nghe,
Dữ
răn việc trước lành dè thân sau.
-
Mấy ai ở đặng hảo tâm,
Nắng
hun giúp nón, mưa dầm giúp tơi.
-
Người đời như bóng phù du,
Sớm
còn tối mất công phu lỡ làng.
-
Nực cười con tạo trớ trinh,
Chữ
duyên tráo chác, chữ tình lãng xao.
Nhạc điệu thơ Nguyễn Đình Chiểu
có một số câu phân bố các dấu huyền tạo nên một tâm tình ngẫm nghĩ.
- Thương ôi! Người ngọc ở Bình Đông
(Thơ điếu Phan Tòng)
- Hoa cỏ ngùi ngóng gió Đông
(Xúc cảnh)
- Chiều chiều lại nhớ chiều chiều,
Cám cảnh giang sơn biết bấy nhiêu.
Cuộc đời và thơ văn Nguyễn Đình Chiểu là
nhất quán. Cuộc đời và thơ văn Nguyễn
Đình Chiểu khác nào: "Trên trời có những vì sao có ánh sáng khác thường
nhưng con mắt của chúng ta phải chăm chú nhìn thì mới thấy, và càng nhìn càng
thấy sáng" (Phạm Văn Đồng - Nguyễn Đình Chiểu, ngôi sao sáng trong văn
nghệ của dân tộc). N. Niculin: "Nhà thơ nhà phê bình
hiện đại Xuân Diệu đã viết rằng cánh buồm thơ ca của Đồ Chiểu chứa đầy bão táp
của một thời đại giông tố, nó đã đem tới chúng ta bầu không khí của thời đại
đó. Cánh buồm ấy đã vượt qua một thế kỉ, nhẹ nhàng lướt trên sóng thời gian và
mạnh bạo tiến thẳng về phương trời xa tắp" (Nhà thơ thân yêu của miền Nam
Việt Nam).
Hoàng Dục - 2007
Hoàng Dục - 2007
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét