Thứ Tư, 9 tháng 5, 2012

70. BÊ HAI NGÀY ẤY

Từ  trái sang : Hoàng Dục, Trần Kim Thỏa, Nguyễn Hữu Tùng, Nguyễn Đức Thứ, Lê Phú Kỳ, Phạm Hữu Châu, Mai Xuân Anh (bạn học Bồ Đề với Tùng) và Hồ Văn Dốn
           Ngày ấy là những năm 1968 –1971. Ngày ấy, tôi làm đơn xin học ban B theo lời khuyên của anh rể tôi: hãy học tư duy lô gic
trước khi học mơ mộng. Chả là, anh biết tôi có một chút năng khiếu văn chương và rất thích học ban C. Và thế là, tôi nghiễm nhiên trở thành một thành viên của lớp Tam B2, một trong ba lớp ban B, ban Toán-Lý, của trường trung học Phan Châu Trinh, năm học 1968 – 1969.Và cũng từ đó, tôi gắn bó cùng bè bạn lớp B2 của tôi trong suốt ba năm học của bậc trung học đệ nhị cấp này.
            Ngày đầu tiên vào lớp, tôi gặp lại bao khuôn mặt bè bạn thân thương của bốn năm đệ nhất cấp dưới mái trường Phan Châu Trinh yêu quý của tôi. Nhưng, tôi cũng quá đỗi lạ lẫm trước bao khuôn mặt của các bạn học sinh giỏi từ các trường trung học như Ngoại Ô, Đông Giang, Hoà Vang, Bồ Đề, Phan Thanh Giản,... mới tuyển vào.
            Những tưởng, chúng tôi khó có thể nhanh chóng hoà hợp và thân thiện với nhau, nhất là đối với các bạn ở các trường khác mới vào lớp. Nhưng lạ lùng thay, cả lớp mau lẹ trở thành một khối thống nhất trên tình  đồng môn và lòng yêu đời của tuổi trẻ. Lạ lùng hơn nữa, người đứng ra nối kết chúng tôi lại ấy lại là anh Ngân Đen. Có lẽ, bạn bè tôi không ai là không nhớ sự kiện này. Cách làm quen có vẻ ngổ ngáo và võ biền, nhưng ai cũng vui vẻ, hể hả chấp nhận, bởi ai cũng trẻ tráng, hồn nhiên và sục sôi máu nóng kia mà. Đấy là những giờ ra chơi, Ngân thách đấu với các bạn ở các trường khác chuyển về. Tất nhiên là đấu tay đôi, đấu bằng tinh thần thượng võ, đúng với không khí trong những tiểu thuyết kiếm hiệp mà chúng tôi đã từng say sưa ngốn ngấu. Thế là cả lớp cứ đến giờ ra chơi lại túm tụm góc sân bóng rổ để cổ vũ họ. Lúc ấy thầy giáo dạy Toán, thầy Lâm Thành Bích, giáo sư hướng dẫn lớp chúng tôi, biết được sự việc; nhưng thầy chỉ mắng khẽ thôi. Thầy biết, chúng tôi chẳng ác ý với nhau, chỉ là một biểu hiện ngủng ngẵng của tuổi trẻ, chỉ là một thoáng nông nổi của “Dế mèn phiêu lưu ký” của Tô Hoài. Anh Lê Phú Kỳ, lớp trưởng, thay mặt cả lớp xin lỗi thầy. Còn chúng tôi, ai cũng nhận ra lỗi của mình; nhưng cứ liếc mắt nhìn những vết trầy trụa sơ sơ trên cánh tay của Ngân, của Thuấn, của Dốn mà tủm tỉm. Riêng tôi, tôi lại thầm nghĩ: âu đó cũng là một biểu hiện của “Nhất quỷ nhì ma thứ ba học trò” và đó cũng là dấu ấn độc đáo của B2 chăng ?
            Năm học cũ qua đi. Chúng tôi lại thân ái bước vào năm học mới, năm đệ Nhị. Có lẽ, năm học 1969 – 1970 của lớp Nhị B2 là một năm học mà chúng tôi không thể nào quên được. Chúng tôi, ai cũng lo “gạo” bài vở, vì đây là năm thi Tú Tài bán phần. Đường đời chúng tôi có rẽ lối hay không đều tuỳ thuộc vào kết quả kỳ thi này. Thầy Trần Đại Tăng, giáo sư hướng dẫn, thường nhắc nhở chúng tôi như vậy. Tôi cũng thường được thầy ân cần bảo ban và động viên ân cần bằng tình thầy trò yêu thương. Tôi ghi lấy lời thầy với  những gì trang trọng và thành kính nhất của tâm hồn tôi. Cả lớp chúng tôi cũng bảo nhau: Thầy mình dạy toán nhưng lại là một nhà thơ - nhà thơ Trần Hoan Trinh - kia đấy. Vì thế, dân Nhị B2, ai cũng nghĩ, lớp mình không thể “lép như trấu” trước các lớp khác về các phong trào văn thể mỹ. Thú thực, cho đến bây giờ khi viết những dòng này, tôi vẫn còn bồi hồi xúc động. Tôi không bồi hồi sao được, khi lớp tôi “lên ngôi” ở tất cả các mặt hoạt động. Thi hùng biện Anh văn đã có các anh Nguyễn Hữu Viện, anh Nguyễn Hữu Trí chiếm giải nhất nhì. Thi đấu bóng rổ, có lớp nào qua mặt được các “siêu sao” như anh Ngô Chung Thành, Trần Kim Thoả, Nguyễn Văn Thành, Nguyễn Doãn Minh,... của B2 chúng tôi. Còn thi báo, truyện ngắn ( cùng với Nữ trung học Hồng Đức ) thì dân ban C cũng ngớ người ra khi công bố giải. Tập san “Hướng Dương” của Nhị B2 nhất bảng. Anh Phan Bắc, trưởng ban báo chí hả hê lắm. Tôi và anh Nguyễn Hùng Kiện, những người chịu trách nhiệm biên tập, in ấn và phát hành cũng vui ra mặt. Còn các bạn cùng lớp chẳng ai bảo ai, mỗi người đều tay chạm vào phần thưởng và ánh mắt sáng lên rạng rỡ. Và hình như ai cũng có một ý nghĩ: Dân B2 mà.
            Với tôi, tôi vừa vui chung cùng lớp, nhưng cũng vừa có một niềm vui riêng của chính mình.  Niềm vui của tôi, tôi không biết bắt đầu từ đâu để kể về tâm trạng ngập tràn xúc động của tôi. Nên bắt đầu từ không khí buổi công bố và trao giải thi viết truyện ngắn của hai trường Phan Châu Trinh và Hồng Đức chăng ? Có lẽ, tôi sẽ bắt đầu từ đấy. Tôi nhớ như in hôm ấy. Trong phòng đọc thư viện của trường, chúng tôi hồi hộp ngồi bên nhau chờ đợi ban giám khảo công bố giải. Tôi cứ bồn chồn tự hỏi: mình gởi dự thi hai truyện ngắn “Sa Mù ” và “Giọt nắng cuối cùng”, đã in trên tập san “Hướng Dương” của lớp, liệu có được gì không ? Tôi nôn nao không yên và các bạn quanh tôi đều như thế. Chúng tôi im phăng phắc, khi thầy Nguyễn Đình Trọng, Trưởng ban giám khảo, lên nhận xét và công bố giải. Giải khuyến khích, giải ba, rồi giải nhì. Vẫn không có tôi. Nhưng rồi, giải nhất là... truyện ngắn... “Giọt nắng cuối cùng”... của tác giả... Dương Uyển Châu, học sinh lớp Nhị B2. Tôi lặng người đi trong tiếng vỗ tay đôm đốp. Tôi cảm giác có một cái gì rất lạ đang len vào người tôi, khiến tôi run lên. Tôi run đến nỗi, khi được trao một vinh hạnh là lên đọc truyện ngắn đoạt giải của mình mà không thể đọc được, phải nhờ anh Lê Phú Kỳ đọc hộ... Tôi run khi lên nhận giải thưởng, bộ tiểu thuyết “Chiến tranh và hoà bình” của Léon Tolstoi. Tôi vẫn run khi về đến lớp trong tiếng reo mừng của các bạn: B2 đoạt Nobel văn chương, dân B2 mà...
            Đúng là dân B2. Dân B2, nên trong kì thi Tú Tài I, không một ai cay đắng: “Thi không ăn ớt thế mà cay” như Tú Xương cả. Tất cả chúng tôi đều đỗ từ Bình thứ trở lên. Riêng anh Nguyễn Văn Hùng đỗ hạng Tối Ưu.
            Lại một năm học mới. Vẫn những khuôn mặt thân quen, nhưng tên lớp có sự thay đổi, không còn là Nhất B2 nữa mà là Mười Hai B2. Tên thay đổi nhưng chúng tôi vẫn giữ gìn và phát huy những mặt mạnh của lớp. Chúng tôi được học thêm một môn toán mới: Tân toán học. Môn toán chúng tôi được học với  thầy Nguyễn Nguyên, một thầy giáo còn rất trẻ. Còn giáo sư hướng dẫn của chúng tôi là thầy Ngô Hào, giáo sư Lý Hoá. Thầy rất “cưng”, nhưng không dễ dãi với chúng tôi trong qua trình học tập cũng như bộ môn của thầy. Năm học 1970 – 1971, chúng tôi vẫn khẳng định mình là dân B2 mà. Không khẳng định thì làm sao anh Lê Phú Kỳ có thể nhận thưởng: Lớp trưởng xuất sắc nhất toàn trường vào cuối năm học. Không khẳng định thì làm sao, trong kì thi Tú Tài II, hơn 95 %, chúng tôi, ai cũng đều “tót bộ ngông”, bởi “Ông trông lên bảng thấy tên ông” (Tú Xương). Lại anh Nguyễn Văn Hùng đỗ hạng Ưu với số điểm cao nhất. Điều này cũng dễ hiểu, vì anh là học sinh đoạt danh hiệu Danh dự toàn trường, niên khoá 1970 – 1971 kia mà. Và nhiểu, rất nhiều các anh nữa đỗ hạng Ưu và hạng Bình mà nay tôi không thể nhớ hết được.
            Nhưng đây cũng là năm vui buồn lẫn lộn của chúng tôi. Vui buồn âu cũng là một lẽ thường tình. Chúng tôi vui vì kỳ thi Tú tài II, lớp Mười Hai B2 đỗ nhiều và đỗ thứ hạng cao, cánh cửa đại học rộng mở trước mắt chúng tôi; nhưng chúng tôi buồn vì phải xa nhau, một người một nẻo. Chúng tôi sẽ đi theo hướng đời mà mình đã chọn với niềm tin vào chính mình, tin vào nội lực của dân B2 và với niềm tự hào của học sinh trường trung học Phan Châu Trinh, Đà Nẵng.
            Chính từ niềm tin, niềm tự hào và nhất là lòng kính trọng, biết ơn sâu sắc Thầy Cô giáo của mình, chúng tôi đường hoàng, mạnh dạn toả về các miền đại học. Các anh Nguyễn Văn Hùng, Lý Thuyết Hùng, Nguyễn Hữu Tùng, Trần Công Tâm, Đào Đăng Đạt,... du học ở trời Tây. Vào Sài Gòn thì có các anh: Phan Bắc (Đại học sư phạm Toán), Lê Văn Trung (Đại học kiến trúc), Cao Quảng Hoàng (Đại học y dược), Phạm Sỹ Hổ, Nguyễn Tường Bách, Phạm Hiếu, Thiều Lư, Nguyễn Ngọc Tuân (Đại học nông Lâm), Nguyễn Hùng Kiện (Đại học ngân hàng), Trần Cảnh Thuận (Đại học công chánh),... Ra Huế thì có các anh: Lê Quang Thông, Nguyễn Sỹ Viên (Đại học y khoa), Đoàn Văn Đáng (Đại học Tạo tác), Lê Phú Kỳ, Nguyễn Thanh Sơn, Nguyễn Hữu Kiềm (Đại học sư phạm Toán), Lê Tráng, Ngô Chung Thành, Hà Đức Kính (Đại học sư phạm Lý Hoá), Nguyễn Hữu Trí (Đại học sư phạm Anh văn), Hoàng Dục, Lê Quang Vinh (Đại học sư phạm Văn),...
            Mới đó mà đã hơn ba mươi năm chúng tôi rời trường. Bây gìơ, trong chúng tôi đã có rất nhiều anh thành đạt,  có một số anh đã đạt học vị Tiến sĩ như: Đào Đăng Đạt, Trần Công Tâm, Nguyễn Ngọc Tuân,... Và cũng có các anh Nguyễn Văn Hùng, Nguyễn Văn Thành đã vượt qua biên giới vô thường mà đi vào cõi vô cùng.
            Nhưng, ba mươi năm lẻ ấy chẳng bao giờ xoá nhoà được ấn tượng BÊ HAI trong tâm tưởng của chúng tôi. Và trong tôi, bây giờ cũng như bao giờ, vẫn mãi dong dóng nỗi niềm tha thiết: BÊ HAI yêu thương ngày ấy.
               
                                Hoàng Dục
                               Đà Nẵng, 01 - 2002

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét