1. Anh Thơ sinh năm 1921, tên thật là Vương Kiều Ân, sinh tại thị trấn Ninh Giang, huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Dương; quê quán: thị xã Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang. Cha bà là một nhà nho đậu tú tài và ra làm công chức cho Pháp nên phải thuyên chuyển nhiều nơi, Anh Thơ cũng phải đổi trường học từ Hải Dương sang Thái Bình rồi về lại Bắc Giang mà vẫn chưa qua bậc tiểu học. Ban đầu, bà lấy bút danh Hồng Anh, sau mới đổi thành Anh Thơ.
Anh Thơ sáng tác từ sớm, năm 17 tuổi với tập Bức tranh quê bà được nhận giải khuyến thích của Tự Lực Văn Đoàn. Sau đó bà tham gia viết bài cho báo Đông Tây và một vài báo khác. Bà mất tại Hà Nội ngày 14-3-2005.
2. Tác phẩm của Anh Thơ:
1. Bức tranh quê (thơ, 1939); 2. Xưa (thơ, in chung, 1942); 3. Răng đen (tiểu thuyết, 1943); 4. Hương xuân (thơ, in chung, 1944); 5. Kể chuyện Vũ Lăng (truyện thơ, 1957); 6. Theo cánh chim câu (thơ, 1960); 7. Ðảo ngọc (thơ, 1964); 8. Hoa dứa trắng (thơ, 1967); 9. Quê chồng (thơ, 1979); 10. Lệ sương (thơ, 1995); 11. Hồi ký Anh Thơ (hồi ký, 2002, gồm 3 tập: Từ bến sông Thương, Tiếng chim tu hú, Bên dòng sông chia cắt).
3. Tập thơ Bức tranh quê.
3.1. Bức tranh quê là tập thơ đầu tay, Anh Thơ sáng tác lúc vừa mười tám tuổi. Tập thơ do NXB Đời nay ấn hành năm 1941. Lúc còn là bản thảo, tập thơ đã được giải khuyến khích của Tự lực văn đoàn năm 1939 (cùng với tập thơ Nghẹn ngào của Tế Hanh). Tập thơ đã có sự tích trữ năng lượng thơ từ thuở nhỏ. Đấy là sự ủ chín cảm xúc trước vẻ đẹp thiên nhiên tạo vật quê nhà, để rồi bùng vỡ thành thơ ca. Vì vậy, mà tập thơ đẹp một vẻ đẹp trong sáng, hồn nhiên của tuổi thanh xuân, thấm đẫm tình yêu quê hương tha thiết của nhà thơ. Đúng như Anh Thơ tự bạch trong Từ bến sông Thương: Những ngày còn là một cô bé 13, 14 tuổi thường cắp rổ đi trên con đường này xuống chợ. Tôi đi chợ mà như được đi vào thiên nhiên. Bờ ao kia, tôi đã đứng ngắm không chán những con chuồn chuồn rỡn nắng. Dưới gốc tre này, tôi đã từng ngồi xem hoa mướp rụng cả đóa, vàng hết bờ cỏ. Lòng yêu quê hương tha thiết, đã khiến tôi làm được "Bức tranh quê", mặc dù bị cha tôi cấm đoán...
Tập thơ gồm bốn mươi mốt bài thơ. Mỗi bài thơ là một mảng, một nét tạo vật thiên nhiên đậm đà bản sắc làng quê đồng bằng Bắc Bộ. Đó là một bức tranh bến đò ngày mưa tre rũ rượi ven bờ che ướt át, một bến đò đêm trăng với con thuyền lênh đênh trong lớp khói sương mù, bến đò trưa hè không mái chèo khua nắng đọng trên sông. Đó là một đĩ con chờ quà mẹ hát i a (Buổi trưa), lũ cu con mê mải chạy theo diều (Chiều hè), những cụ già vào Chiều ba mươi Tết lau quét lại bàn thờ tổ tiên và thành kinh thắp tuần nhang, các thôn nữ trong Đêm xuân cảm giác tâm hồn lâng lâng tình tứ ra bờ sông hát đúm say sưa. Và đó là hình ảnh buổi chợ đông ồn lên những tiếng chào mua bán (Đông chợ), cảnh Nắng hanh, những người đàn bà tung ổ rơm phơi,… Tất cả tạo nên một bức tranh quê với màu sắc riêng, hương vị riêng của riêng Anh Thơ. Bức tranh quê thật đáng yêu đáng trân trọng đúng như Ngô Văn Phú viết : giờ đã thành những bức tranh quý về một làng quê xưa, đằm trong không khí truyền thống, những tre trúc, quán nước bên đường, tiếng võng đưa, người ngồi bắt chấy... những con người chân phác, cảnh nên thơ bình lặng, mang một phong vị riêng ngày càng xa thời hiện đại...
3.2. Trần Thanh Đạm: Thơ Anh Thơ xuất hiện trong phong trào thơ mới: Một gương mặt hiền hòa lặng lẽ, nhưng cũng không kém vẻ tân kỳ. Chị đem lại cho Thơ mới một phong cách độc đáo, đặc biệt. Sau Tương Phố mười lăm năm, cùng các nhà thơ nữ đương thời Vân Ðài, Mộng Tuyết, Hằng Phương..., Anh Thơ đã góp phần chứng tỏ truyền thống nữ lưu văn học từ Ðoàn Thị Ðiểm, bà huyện Thanh Quan, Hồ Xuân Hương đến thế kỷ hai mươi không hề đứt đoạn, mà càng nảy nở. Đúng như Trần Thanh Đạm viết, đọc Bức tranh quê ta bắt gặp một khuôn mặt thơ hiền lành, một hồn thơ hồn nhiên lặng lẽ mà tân kì của nhà thơ. Thơ của Anh Thơ hiền hoà ở cấu trúc, giọng điệu, ở bút pháp, nhưng tân kì ở những chi tiết. hình ảnh, những câu thơ rất ảo rất say.
Về bình diện thể loại, các bài thơ đều là thể thơ tám chữ mỗi khổ bốn câu. Về cấu trúc, ngoại trừ Đêm rằm tháng giêng có bốn khổ thơ, còn các bài khác đều ba khổ, mười hai câu thơ. Trong đó, mỗi khổ thơ là một không gian: khổ một là không gian bao quát, hai khổ sau là không gian chi tiết thường mở đầu bằng các trạng từ: Trên bến vắng, Ngoài đường lội (Bến đò ngày mưa), Trong nhà đỏ, Ngoài đường ngõ (Ngày Tết), Trên bến vắng, Ngoài sông nước (Bến đò đêm trăng), Trong quán nước, Ngoài đê nắng (Bến đò trưa hè), Trong đồng lúa, Ngoài đường đê (Chiều xuân), Trong bếp, Ngoài ruộng lúa (Đêm trăng đông),… Một cấu trúc lặp như thế dễ rơi vào đơn điệu, rất dễ làm nghèo cảm xúc và suy tưởng thơ. Nhưng có người cho đó là cấu trúc nữ tính (số 3 là số âm), không biết phải không?
Về bình diện bút pháp, thơ của Anh Thơ phảng phất nét phóng sự, nhiều nét tả thực. Nhà thơ như chộp lấy sự sống của tạo vật thiên nhiên và ghi lại một cách khách quan trong thơ. Mỗi bài thơ nhà thơ ghi lại một số chi tiết nhưng thể hiện được hồn cảnh. Và qua những chi tiết đó ta tưởng chừng chả có tình cảm, cảm xúc của nhà thơ trú ở bên trong. Đọc bài thơ Mưa, mắt ta chạm vào hàng tre, hàng cau, cánh đồng, ao rau muống mà nghe lòng xao xuyến vì sức sống của tạo vật qua tài quan sát tinh tế và diễn tả một cách hồn nhiên của nhà thơ.
Tre lả lướt nghiêng đầu cho nước gội,
Cau thẳng mình dang lá đóm mưa rơi,
Đồng chìm xuống bông lúa vàng rũ rượi,
Ao rềnh lên bè rau muống xanh tươi.
Hay đến với bài thơ Lụt ta cũng có cảm giác như thế.
Đê đã vỡ một đêm mưa tầm tã,
Nước băng sông ồ ạt chảy trôi đồng.
Làng xóm lụt chìm đi bao mái rạ,
Bao vây vườn mất tích giữa mênh mông.
Cái hiền hoà của thơ Anh Thơ là ở đấy. Và ở phương diện này ta đồng cảm với Hoài Thanh: ... Tranh quê có bức chỉ là bức ảnh, cái thản nhiên hàm súc của nghệ sĩ đã nhường chỗ cho cái thản nhiên trống rỗng của nhà nghề . Theo gót thi nhân đến đó, ta thấy uất ức khó thở: người dẫn ta vào một thế giới tù túng rồi không cho ta mơ tưởng đến một trời đất nào khác nữa... Và cũng rất dễ nối lời cùng Ngô Văn Phú: Kể ra cái lối thơ cứ nhìn cảnh mà tả, không phả hồn thơ, tình người vào cho bài thơ cũng dễ gây cho người đọc thấy thiếu thiếu một chút gì đó.
Nhưng đọc kĩ và ngẫm kĩ mới thấy thơ của Anh Thơ cũng có sự giải phóng, thăng hoa cảm xúc. Bức tranh quê vẫn có bút pháp riêng độc đáo... Ðọc những bài thơ viết về một chiều xuân, một trưa hè, một bến đò ngày mưa, ta gặp những nhận xét tinh tế và cảm nghe lòng mình có được sự thư thái riêng, thú vị riêng. Tâm hồn ta không còn tù túng, quẩn quanh trong cái cấu trúc chật chội, giữa những nét tả thực điển hình mà thản nhiên của nhà thơ nữa. Ta cảm giác như thế vì Anh Thơ có lúc đã bước ra khỏi cõi thực mà đi vào cõi mơ như ý kiến của Hoài Thanh về thơ: Thơ phải là một tia sáng nối cõi thực và cõi mộng, mặt đất với các vì sao. Thơ không cốt tả mà cốt gợi, gợi cảnh cũng như gợi tình.
Đúng là ta cần thơ chân thật chứ không cần thơ thực thà cứ ghi hình sắc của cảnh. Thơ là tình, là cảm xúc, là hồn thi nhân tưới tẩm trong thơ. Thơ là sự quyện nhuyễn giữa bút pháp hiện thực và bút pháp lãng mạn. Ở những bài thơ trong Bức tranh quê, giữa những câu thơ tả cảnh, nhà thơ cài vào những câu thơ rất ảo. Có khi ta nhập vào thơ cùng hồn thi nhân bay vào cõi thiên thai mơ màng, chơi vơi cùng tiếng sáo:
Trời quang mây, cánh diều bay hóng mát,
Tận Ngân Hà buông giọng sáo chơi vơi.
(Đêm hè)
Và hồn ta cũng sóng sánh ánh trăng vàng theo nhịp gàu tát nước của cô thôn nữ:
Ngoài đồng lúa một vài cô tát nước,
Múc trăng lên theo tiếng hát mơ màng
(Đêm hè)
Rồi cảnh đêm xuân. Trong không khí quang đãng, nồng nàn sự sống, nhà thơ điểm một nét tả:
Và lại có cả một đôi đom đóm,
Bay dập dìu như muốn phải lòng nhau.
(Đêm xuân)
Chẳng có gì lớn lao trong thơ, chỉ một đôi đóm đóm, bình thường thế thôi. Vậy mà, hai câu thơ rất cảm gợi tình. Hai câu thơ vừa gợi được không khí đem xuân thơm tho tình ái, một tín hiệu sự sống sức sống phát triển dồi dào, vừa “dập dìu” cái tình của nhà thơ: say cảnh đêm xuân quê nhà. Có khi, giữa bút pháp hiện thực nhà thơ chen vào một câu đợc viết bằng bút pháp lãng mạn. Trong bài Sang thu, nhà thơ gởi nỗi niềm xao xuyến vào những bông hoa mướp rụng, vào những cánh chuồn phấp phới bay. Hồn nhà thơ như ngẩn ngơ trước khoảnh khắc giao mùa, một niềm ngẩn ngơ rất nhẹ, thật mơ hồ.
Hoa mướp rụng từng đoá vàng rải rác,
Lũ chuồn chuồn nhớ nắng ngẩn ngơ bay.Cảnh thơ giản dị mà tình thơ lai láng. Cũng là lũ chuồn, nhưng từ lũ chuồn chuồn giỡn nắng, đuổi nhau bay (Trưa hè) khác xa lũ chuồn chuồn nhớ nắng ngẩn ngơ bay. Sự khác biệt ấy phải chăng là do hồn thơ đã lấn át cảnh thơ, thi nhân đã đem tâm trạng ngẩn ngơ của mình mà phả vào hình ảnh thơ, khiến câu thơ mới mẻ, độc đáo và giàu sức gợi. Làm thơ là sự ảo hóa hiện thực bằng xúc cảm tâm tình, bằng sự liên tưởng nghệ thuật là đây chăng ?
Và đây là cái ao chuôm quen thuộc của làng quê Bắc Bộ.
Những ao biếc ngâm sao đầy nước đỏ,
Bụi tre già lơi lả uốn lưng cong.
(Rằm tháng tám)
Ta đã từng rung cảm trước ao thu lạnh lẽo nước trong veo (Thu điếu) của Nguyễn Khuyến và bây giờ là chiếc ao thu của Anh Thơ. Không có không khí lạnh lẽo, không còn sắc nước thu trong veo và càng không có nét sóng mơ hồ hơi gợn tí; ao thu của Anh Thơ có sự giao hòa màu sắc của nước của sao. Màu nước biếc xanh ôm ấp trong lòng nó sắc đỏ lờn vờn của sao. Màu giao tình với sắc, cho nên bụi tre già không thể vô cảm mà đang xao lòng, đang uốn lưng cong lơi lả theo vũ điệu của tình yêu, vũ điệu của đất trời và của lòng người.
Đọc Bức tranh quê, ta bị hút vào nhưng câu thơ như là nhưng nốt nhấn của cảnh của cảm xúc: Mưa bay trăng nhè nhẹ dệt tơ vàng (Đêm trăng xuân) hay: Khắp vườn cải trăng vàng hoa lấp loáng - Muôn cánh rờn nhè nhẹ sóng hương bay (Đêm trăng đông),… Đấy là những câu thơ tả cảnh mà đong đầy hồn thi nhân. Ở những câu thơ tả người, bên cạnh những câu thơ rất thực, rất mộc: Thằng cu con rụi mắt cố chờ ăn - Đĩ nhớn mơ chiếc váy sồi đen nhức (Đêm ba mươi Tết), Ông già lặng điềm nhiên ngồi kéo nhị - Thằng cu con ngong ngóng ngửa thau chờ (Đám xẩm), ta gặp những câu thơ rất xinh, xinh như cô gái làng:
Vài quán chợ với chiếc khăn mỏ quạ,
Cô gái làng ghé nón sau bồ cau.
Nhưng nắng hanh cũng làm cô đỏ má,
Cho thêm duyên trên miệng thắm quết trầu.
(Nắng hanh)
Và ta cũng gặp câu thơ viết về người thầy bói kì ảo đến là lùng:
Lặng lẽ nhất có vài người thầy bói,
Bước gậy lần như những bước chiêm bao.
(Họp chợ)
Câu thơ thật đẹp. Nếu không nhà thơ nhập cảm với những con người “chiêm bao” tương lai, số mệnh cho người khác liệu có câu thơ ảo đến thế không ? Và nếu không có tình người, liệu Anh Thơ có vẽ ra được con đường sự sống của những người thầy bói - con đường lẽo đẽo nẻo về chiêm bao ấy không ?
4. Cảm nhận một vài bài thơ tiêu biểu
4.1. Bài thơ Chiều xuân.
Mưa đổ bụi êm êm trên bến vắng,
Đò biếng lười nằm mặc nước sông trôi…
Quán tranh đứng im lìm trong vắng lặng
Bên chòm xoan hoa tím rụng tơi bời.
Ngoài đường đê, cỏ non tràn biếc cỏ,
Đàn sáo đen sà xuống mổ vu vơ.
Mấy cánh bướm rập rờn trôi trước gió,
Những trâu bò thong thả cúi ăn mưa.
Trong đồng lúa xanh rờn và ướt lặng
Lũ cò con chốc chốc vụt bay ra.
Làm giật mình một cô nàng yếm thắm,
Cúi cuốc cào cỏ ruộng sắp ra hoa.
Bức tranh quê là một tập thơ trữ tình gồm 41 bài thơ. Trong đó, mỗi bài thơ như là một bức tranh kí hoạ về một nét đẹp của chốn quê Việt Nam ngày xưa. Đó có thể là bức kí hoạ Bến đò ngày mưa, Trưa hè, Bến đò đêm trăng. Bến đò trưa hè, Đêm thu,… Nhưng đó là tranh thơ được vẽ bằng con mắt đa cảm, con mắt tình quê của nữ sĩ Anh Thơ. Vì vậy, mỗi bức tranh là một góc nhìn, ghi lại ấn tượng, cảm xúc về cảnh quê đơn sơ mà có hồn. Cảnh quê, nét nào cũng hoang vắng, bình lặng và buồn; nhưng thấm sâu trong cảnh là tâm trạng bâng khuâng, luyến níu của thi sĩ. Hai nét cảnh quê và tình quê làm nên linh hồn của từng bài thơ trong Bức tranh quê. Bài thơ kết lắng “tình trong cảnh ấy, cảnh trong tình” này là Chiều xuân.
Bức tranh chiều quê hiện lên sau làn mưa xuân êm êm:
Mưa đổ bụi êm êm trên bến vắng,
Đò biếng lười nằm mặc nước sông trôi…
Quán tranh đứng im lìm trong vắng lặng
Bên chòm xoan hoa tím rụng tơi bời.
Bốn câu thơ là một bức tranh thuỷ mặc chấm phá những nét đầy thi vị về một buổi chiều mưa xuân. Mưa bụi rơi thật mỏng, thật nhẹ, rắc rải những hạt sáng lên con đò đang buông thả, lên mái tranh im lìm và hoa xoan rụng tơi bời. Không gian chỉ là một nét cảnh quê khi phiên chợ tàn. Cảnh không một bóng người, không một tiếng động nhỏ nào. Không gian tĩnh lặng đến ngưng đọng ngỡ như không đem đến một rung cảm nào cho người đọc. Nhưng ngắm kĩ mới thấy trong từng nét cảnh ấy như giăng mắc một dây tơ mảnh đang khẽ rung qua những từ êm êm, biếng lười, tơi bời,… Cảnh âm thầm mà gợi cảm nhờ những từ ngữ dùng chính xác của nhà thơ. Cảnh chiều xuân hiu hắt nhưng ít nhiều lay động nhẹ nhàng theo những cảnh hoa xoan rụng tơi bời.
Đoạn thơ hay nhờ âm điệu thơ. Dù bút pháp thơ tả thực nhưng người đọc vẫn nhận ra tâm hồn thi nhân lóng lánh trong từng câu chữ. Nhà thơ nhìn cảnh bằng con mắt hiện thực nhưng vẽ cảnh bằng ánh nhìn lãng mạn, bằng cảm xúc nội tâm nên bức tranh quê vụt trở nên sinh động lạ lùng! Nhất là hai câu thơ:
Quán tranh đứng im lìm trong vắng lặng
Bên chòm xoan hoa tím rụng tơi bời.
Thơ đã từ mặt đất mà bay lên chạm vào các vì sao. Câu thơ thật ảo nên cái tình nhà thơ vì thế mà xôn xao. Và người đọc cũng nhờ thế mà như bay giữa khung trời rộng rãi.
Nếu cảnh Chiều xuân ở khổ thơ đầu buồn lặng, dù có phập phồng sự sống nhưng cũng quá tĩnh tại; thì hai khổ thơ sau cảnh sinh động hơn:
Ngoài đường đê, cỏ non tràn biếc cỏ,
Đàn sáo đen sà xuống mổ vu vơ.
Mấy cánh bướm rập rờn trôi trước gió,
Những trâu bò thong thả cúi ăn mưa.
2. Tác phẩm của Anh Thơ:
1. Bức tranh quê (thơ, 1939); 2. Xưa (thơ, in chung, 1942); 3. Răng đen (tiểu thuyết, 1943); 4. Hương xuân (thơ, in chung, 1944); 5. Kể chuyện Vũ Lăng (truyện thơ, 1957); 6. Theo cánh chim câu (thơ, 1960); 7. Ðảo ngọc (thơ, 1964); 8. Hoa dứa trắng (thơ, 1967); 9. Quê chồng (thơ, 1979); 10. Lệ sương (thơ, 1995); 11. Hồi ký Anh Thơ (hồi ký, 2002, gồm 3 tập: Từ bến sông Thương, Tiếng chim tu hú, Bên dòng sông chia cắt).
3. Tập thơ Bức tranh quê.
3.1. Bức tranh quê là tập thơ đầu tay, Anh Thơ sáng tác lúc vừa mười tám tuổi. Tập thơ do NXB Đời nay ấn hành năm 1941. Lúc còn là bản thảo, tập thơ đã được giải khuyến khích của Tự lực văn đoàn năm 1939 (cùng với tập thơ Nghẹn ngào của Tế Hanh). Tập thơ đã có sự tích trữ năng lượng thơ từ thuở nhỏ. Đấy là sự ủ chín cảm xúc trước vẻ đẹp thiên nhiên tạo vật quê nhà, để rồi bùng vỡ thành thơ ca. Vì vậy, mà tập thơ đẹp một vẻ đẹp trong sáng, hồn nhiên của tuổi thanh xuân, thấm đẫm tình yêu quê hương tha thiết của nhà thơ. Đúng như Anh Thơ tự bạch trong Từ bến sông Thương: Những ngày còn là một cô bé 13, 14 tuổi thường cắp rổ đi trên con đường này xuống chợ. Tôi đi chợ mà như được đi vào thiên nhiên. Bờ ao kia, tôi đã đứng ngắm không chán những con chuồn chuồn rỡn nắng. Dưới gốc tre này, tôi đã từng ngồi xem hoa mướp rụng cả đóa, vàng hết bờ cỏ. Lòng yêu quê hương tha thiết, đã khiến tôi làm được "Bức tranh quê", mặc dù bị cha tôi cấm đoán...
Tập thơ gồm bốn mươi mốt bài thơ. Mỗi bài thơ là một mảng, một nét tạo vật thiên nhiên đậm đà bản sắc làng quê đồng bằng Bắc Bộ. Đó là một bức tranh bến đò ngày mưa tre rũ rượi ven bờ che ướt át, một bến đò đêm trăng với con thuyền lênh đênh trong lớp khói sương mù, bến đò trưa hè không mái chèo khua nắng đọng trên sông. Đó là một đĩ con chờ quà mẹ hát i a (Buổi trưa), lũ cu con mê mải chạy theo diều (Chiều hè), những cụ già vào Chiều ba mươi Tết lau quét lại bàn thờ tổ tiên và thành kinh thắp tuần nhang, các thôn nữ trong Đêm xuân cảm giác tâm hồn lâng lâng tình tứ ra bờ sông hát đúm say sưa. Và đó là hình ảnh buổi chợ đông ồn lên những tiếng chào mua bán (Đông chợ), cảnh Nắng hanh, những người đàn bà tung ổ rơm phơi,… Tất cả tạo nên một bức tranh quê với màu sắc riêng, hương vị riêng của riêng Anh Thơ. Bức tranh quê thật đáng yêu đáng trân trọng đúng như Ngô Văn Phú viết : giờ đã thành những bức tranh quý về một làng quê xưa, đằm trong không khí truyền thống, những tre trúc, quán nước bên đường, tiếng võng đưa, người ngồi bắt chấy... những con người chân phác, cảnh nên thơ bình lặng, mang một phong vị riêng ngày càng xa thời hiện đại...
3.2. Trần Thanh Đạm: Thơ Anh Thơ xuất hiện trong phong trào thơ mới: Một gương mặt hiền hòa lặng lẽ, nhưng cũng không kém vẻ tân kỳ. Chị đem lại cho Thơ mới một phong cách độc đáo, đặc biệt. Sau Tương Phố mười lăm năm, cùng các nhà thơ nữ đương thời Vân Ðài, Mộng Tuyết, Hằng Phương..., Anh Thơ đã góp phần chứng tỏ truyền thống nữ lưu văn học từ Ðoàn Thị Ðiểm, bà huyện Thanh Quan, Hồ Xuân Hương đến thế kỷ hai mươi không hề đứt đoạn, mà càng nảy nở. Đúng như Trần Thanh Đạm viết, đọc Bức tranh quê ta bắt gặp một khuôn mặt thơ hiền lành, một hồn thơ hồn nhiên lặng lẽ mà tân kì của nhà thơ. Thơ của Anh Thơ hiền hoà ở cấu trúc, giọng điệu, ở bút pháp, nhưng tân kì ở những chi tiết. hình ảnh, những câu thơ rất ảo rất say.
Về bình diện thể loại, các bài thơ đều là thể thơ tám chữ mỗi khổ bốn câu. Về cấu trúc, ngoại trừ Đêm rằm tháng giêng có bốn khổ thơ, còn các bài khác đều ba khổ, mười hai câu thơ. Trong đó, mỗi khổ thơ là một không gian: khổ một là không gian bao quát, hai khổ sau là không gian chi tiết thường mở đầu bằng các trạng từ: Trên bến vắng, Ngoài đường lội (Bến đò ngày mưa), Trong nhà đỏ, Ngoài đường ngõ (Ngày Tết), Trên bến vắng, Ngoài sông nước (Bến đò đêm trăng), Trong quán nước, Ngoài đê nắng (Bến đò trưa hè), Trong đồng lúa, Ngoài đường đê (Chiều xuân), Trong bếp, Ngoài ruộng lúa (Đêm trăng đông),… Một cấu trúc lặp như thế dễ rơi vào đơn điệu, rất dễ làm nghèo cảm xúc và suy tưởng thơ. Nhưng có người cho đó là cấu trúc nữ tính (số 3 là số âm), không biết phải không?
Về bình diện bút pháp, thơ của Anh Thơ phảng phất nét phóng sự, nhiều nét tả thực. Nhà thơ như chộp lấy sự sống của tạo vật thiên nhiên và ghi lại một cách khách quan trong thơ. Mỗi bài thơ nhà thơ ghi lại một số chi tiết nhưng thể hiện được hồn cảnh. Và qua những chi tiết đó ta tưởng chừng chả có tình cảm, cảm xúc của nhà thơ trú ở bên trong. Đọc bài thơ Mưa, mắt ta chạm vào hàng tre, hàng cau, cánh đồng, ao rau muống mà nghe lòng xao xuyến vì sức sống của tạo vật qua tài quan sát tinh tế và diễn tả một cách hồn nhiên của nhà thơ.
Tre lả lướt nghiêng đầu cho nước gội,
Cau thẳng mình dang lá đóm mưa rơi,
Đồng chìm xuống bông lúa vàng rũ rượi,
Ao rềnh lên bè rau muống xanh tươi.
Hay đến với bài thơ Lụt ta cũng có cảm giác như thế.
Đê đã vỡ một đêm mưa tầm tã,
Nước băng sông ồ ạt chảy trôi đồng.
Làng xóm lụt chìm đi bao mái rạ,
Bao vây vườn mất tích giữa mênh mông.
Cái hiền hoà của thơ Anh Thơ là ở đấy. Và ở phương diện này ta đồng cảm với Hoài Thanh: ... Tranh quê có bức chỉ là bức ảnh, cái thản nhiên hàm súc của nghệ sĩ đã nhường chỗ cho cái thản nhiên trống rỗng của nhà nghề . Theo gót thi nhân đến đó, ta thấy uất ức khó thở: người dẫn ta vào một thế giới tù túng rồi không cho ta mơ tưởng đến một trời đất nào khác nữa... Và cũng rất dễ nối lời cùng Ngô Văn Phú: Kể ra cái lối thơ cứ nhìn cảnh mà tả, không phả hồn thơ, tình người vào cho bài thơ cũng dễ gây cho người đọc thấy thiếu thiếu một chút gì đó.
Nhưng đọc kĩ và ngẫm kĩ mới thấy thơ của Anh Thơ cũng có sự giải phóng, thăng hoa cảm xúc. Bức tranh quê vẫn có bút pháp riêng độc đáo... Ðọc những bài thơ viết về một chiều xuân, một trưa hè, một bến đò ngày mưa, ta gặp những nhận xét tinh tế và cảm nghe lòng mình có được sự thư thái riêng, thú vị riêng. Tâm hồn ta không còn tù túng, quẩn quanh trong cái cấu trúc chật chội, giữa những nét tả thực điển hình mà thản nhiên của nhà thơ nữa. Ta cảm giác như thế vì Anh Thơ có lúc đã bước ra khỏi cõi thực mà đi vào cõi mơ như ý kiến của Hoài Thanh về thơ: Thơ phải là một tia sáng nối cõi thực và cõi mộng, mặt đất với các vì sao. Thơ không cốt tả mà cốt gợi, gợi cảnh cũng như gợi tình.
Đúng là ta cần thơ chân thật chứ không cần thơ thực thà cứ ghi hình sắc của cảnh. Thơ là tình, là cảm xúc, là hồn thi nhân tưới tẩm trong thơ. Thơ là sự quyện nhuyễn giữa bút pháp hiện thực và bút pháp lãng mạn. Ở những bài thơ trong Bức tranh quê, giữa những câu thơ tả cảnh, nhà thơ cài vào những câu thơ rất ảo. Có khi ta nhập vào thơ cùng hồn thi nhân bay vào cõi thiên thai mơ màng, chơi vơi cùng tiếng sáo:
Trời quang mây, cánh diều bay hóng mát,
Tận Ngân Hà buông giọng sáo chơi vơi.
(Đêm hè)
Và hồn ta cũng sóng sánh ánh trăng vàng theo nhịp gàu tát nước của cô thôn nữ:
Ngoài đồng lúa một vài cô tát nước,
Múc trăng lên theo tiếng hát mơ màng
(Đêm hè)
Rồi cảnh đêm xuân. Trong không khí quang đãng, nồng nàn sự sống, nhà thơ điểm một nét tả:
Và lại có cả một đôi đom đóm,
Bay dập dìu như muốn phải lòng nhau.
(Đêm xuân)
Chẳng có gì lớn lao trong thơ, chỉ một đôi đóm đóm, bình thường thế thôi. Vậy mà, hai câu thơ rất cảm gợi tình. Hai câu thơ vừa gợi được không khí đem xuân thơm tho tình ái, một tín hiệu sự sống sức sống phát triển dồi dào, vừa “dập dìu” cái tình của nhà thơ: say cảnh đêm xuân quê nhà. Có khi, giữa bút pháp hiện thực nhà thơ chen vào một câu đợc viết bằng bút pháp lãng mạn. Trong bài Sang thu, nhà thơ gởi nỗi niềm xao xuyến vào những bông hoa mướp rụng, vào những cánh chuồn phấp phới bay. Hồn nhà thơ như ngẩn ngơ trước khoảnh khắc giao mùa, một niềm ngẩn ngơ rất nhẹ, thật mơ hồ.
Hoa mướp rụng từng đoá vàng rải rác,
Lũ chuồn chuồn nhớ nắng ngẩn ngơ bay.Cảnh thơ giản dị mà tình thơ lai láng. Cũng là lũ chuồn, nhưng từ lũ chuồn chuồn giỡn nắng, đuổi nhau bay (Trưa hè) khác xa lũ chuồn chuồn nhớ nắng ngẩn ngơ bay. Sự khác biệt ấy phải chăng là do hồn thơ đã lấn át cảnh thơ, thi nhân đã đem tâm trạng ngẩn ngơ của mình mà phả vào hình ảnh thơ, khiến câu thơ mới mẻ, độc đáo và giàu sức gợi. Làm thơ là sự ảo hóa hiện thực bằng xúc cảm tâm tình, bằng sự liên tưởng nghệ thuật là đây chăng ?
Và đây là cái ao chuôm quen thuộc của làng quê Bắc Bộ.
Những ao biếc ngâm sao đầy nước đỏ,
Bụi tre già lơi lả uốn lưng cong.
(Rằm tháng tám)
Ta đã từng rung cảm trước ao thu lạnh lẽo nước trong veo (Thu điếu) của Nguyễn Khuyến và bây giờ là chiếc ao thu của Anh Thơ. Không có không khí lạnh lẽo, không còn sắc nước thu trong veo và càng không có nét sóng mơ hồ hơi gợn tí; ao thu của Anh Thơ có sự giao hòa màu sắc của nước của sao. Màu nước biếc xanh ôm ấp trong lòng nó sắc đỏ lờn vờn của sao. Màu giao tình với sắc, cho nên bụi tre già không thể vô cảm mà đang xao lòng, đang uốn lưng cong lơi lả theo vũ điệu của tình yêu, vũ điệu của đất trời và của lòng người.
Đọc Bức tranh quê, ta bị hút vào nhưng câu thơ như là nhưng nốt nhấn của cảnh của cảm xúc: Mưa bay trăng nhè nhẹ dệt tơ vàng (Đêm trăng xuân) hay: Khắp vườn cải trăng vàng hoa lấp loáng - Muôn cánh rờn nhè nhẹ sóng hương bay (Đêm trăng đông),… Đấy là những câu thơ tả cảnh mà đong đầy hồn thi nhân. Ở những câu thơ tả người, bên cạnh những câu thơ rất thực, rất mộc: Thằng cu con rụi mắt cố chờ ăn - Đĩ nhớn mơ chiếc váy sồi đen nhức (Đêm ba mươi Tết), Ông già lặng điềm nhiên ngồi kéo nhị - Thằng cu con ngong ngóng ngửa thau chờ (Đám xẩm), ta gặp những câu thơ rất xinh, xinh như cô gái làng:
Vài quán chợ với chiếc khăn mỏ quạ,
Cô gái làng ghé nón sau bồ cau.
Nhưng nắng hanh cũng làm cô đỏ má,
Cho thêm duyên trên miệng thắm quết trầu.
(Nắng hanh)
Và ta cũng gặp câu thơ viết về người thầy bói kì ảo đến là lùng:
Lặng lẽ nhất có vài người thầy bói,
Bước gậy lần như những bước chiêm bao.
(Họp chợ)
Câu thơ thật đẹp. Nếu không nhà thơ nhập cảm với những con người “chiêm bao” tương lai, số mệnh cho người khác liệu có câu thơ ảo đến thế không ? Và nếu không có tình người, liệu Anh Thơ có vẽ ra được con đường sự sống của những người thầy bói - con đường lẽo đẽo nẻo về chiêm bao ấy không ?
4. Cảm nhận một vài bài thơ tiêu biểu
4.1. Bài thơ Chiều xuân.
Mưa đổ bụi êm êm trên bến vắng,
Đò biếng lười nằm mặc nước sông trôi…
Quán tranh đứng im lìm trong vắng lặng
Bên chòm xoan hoa tím rụng tơi bời.
Ngoài đường đê, cỏ non tràn biếc cỏ,
Đàn sáo đen sà xuống mổ vu vơ.
Mấy cánh bướm rập rờn trôi trước gió,
Những trâu bò thong thả cúi ăn mưa.
Trong đồng lúa xanh rờn và ướt lặng
Lũ cò con chốc chốc vụt bay ra.
Làm giật mình một cô nàng yếm thắm,
Cúi cuốc cào cỏ ruộng sắp ra hoa.
Bức tranh quê là một tập thơ trữ tình gồm 41 bài thơ. Trong đó, mỗi bài thơ như là một bức tranh kí hoạ về một nét đẹp của chốn quê Việt Nam ngày xưa. Đó có thể là bức kí hoạ Bến đò ngày mưa, Trưa hè, Bến đò đêm trăng. Bến đò trưa hè, Đêm thu,… Nhưng đó là tranh thơ được vẽ bằng con mắt đa cảm, con mắt tình quê của nữ sĩ Anh Thơ. Vì vậy, mỗi bức tranh là một góc nhìn, ghi lại ấn tượng, cảm xúc về cảnh quê đơn sơ mà có hồn. Cảnh quê, nét nào cũng hoang vắng, bình lặng và buồn; nhưng thấm sâu trong cảnh là tâm trạng bâng khuâng, luyến níu của thi sĩ. Hai nét cảnh quê và tình quê làm nên linh hồn của từng bài thơ trong Bức tranh quê. Bài thơ kết lắng “tình trong cảnh ấy, cảnh trong tình” này là Chiều xuân.
Bức tranh chiều quê hiện lên sau làn mưa xuân êm êm:
Mưa đổ bụi êm êm trên bến vắng,
Đò biếng lười nằm mặc nước sông trôi…
Quán tranh đứng im lìm trong vắng lặng
Bên chòm xoan hoa tím rụng tơi bời.
Bốn câu thơ là một bức tranh thuỷ mặc chấm phá những nét đầy thi vị về một buổi chiều mưa xuân. Mưa bụi rơi thật mỏng, thật nhẹ, rắc rải những hạt sáng lên con đò đang buông thả, lên mái tranh im lìm và hoa xoan rụng tơi bời. Không gian chỉ là một nét cảnh quê khi phiên chợ tàn. Cảnh không một bóng người, không một tiếng động nhỏ nào. Không gian tĩnh lặng đến ngưng đọng ngỡ như không đem đến một rung cảm nào cho người đọc. Nhưng ngắm kĩ mới thấy trong từng nét cảnh ấy như giăng mắc một dây tơ mảnh đang khẽ rung qua những từ êm êm, biếng lười, tơi bời,… Cảnh âm thầm mà gợi cảm nhờ những từ ngữ dùng chính xác của nhà thơ. Cảnh chiều xuân hiu hắt nhưng ít nhiều lay động nhẹ nhàng theo những cảnh hoa xoan rụng tơi bời.
Đoạn thơ hay nhờ âm điệu thơ. Dù bút pháp thơ tả thực nhưng người đọc vẫn nhận ra tâm hồn thi nhân lóng lánh trong từng câu chữ. Nhà thơ nhìn cảnh bằng con mắt hiện thực nhưng vẽ cảnh bằng ánh nhìn lãng mạn, bằng cảm xúc nội tâm nên bức tranh quê vụt trở nên sinh động lạ lùng! Nhất là hai câu thơ:
Quán tranh đứng im lìm trong vắng lặng
Bên chòm xoan hoa tím rụng tơi bời.
Thơ đã từ mặt đất mà bay lên chạm vào các vì sao. Câu thơ thật ảo nên cái tình nhà thơ vì thế mà xôn xao. Và người đọc cũng nhờ thế mà như bay giữa khung trời rộng rãi.
Nếu cảnh Chiều xuân ở khổ thơ đầu buồn lặng, dù có phập phồng sự sống nhưng cũng quá tĩnh tại; thì hai khổ thơ sau cảnh sinh động hơn:
Ngoài đường đê, cỏ non tràn biếc cỏ,
Đàn sáo đen sà xuống mổ vu vơ.
Mấy cánh bướm rập rờn trôi trước gió,
Những trâu bò thong thả cúi ăn mưa.
Trong đồng lúa xanh rờn và ướt lặng
Lũ cò con chốc chốc vụt bay ra.
Làm giật mình một cô nàng yếm thắm,
Cúi cuốc cào cỏ ruộng sắp ra hoa.
Không gian thơ không đơn thuần chỉ tràn ra theo bề rộng mà đang vút lên theo chiều cao. Sắc cỏ non trải mở đến mênh mang, đàn sáo đen sà xuống, những chú cò con bay lên và có cả bóng hình một cô yếm thắm. Tất cả tạo hồn cho quang cảnh làng quê vào một chiều xuân thơ mộng. Bức tranh quê sáng lên, sinh sắc hơn. Chi tiết “cỏ non tràn biếc cỏ” với sự mở khép của từ “cỏ” gợi hình ảnh con đường đê giàu sức sống, sắc cỏ xanh rói tươi, nõn nường như sinh sôi ào ạt. Bên cạnh đó, những hình ảnh người và vật đều xuất hiện với dáng vẻ bình yên gợi cảm giác thong dong của cuộc sống thanh hiền hoà sau luỹ tre xanh.
Bức tranh sống động không nhờ ở những chi tiết động mà còn ở sự sáng tạo nhưng hình ảnh độc đáo và sự phối màu nhuần nhị. Hình ảnh “những trâu bò thong thả cúi ăn mưa” quả khó nắm bắt ý nghĩa của nó. Đọc câu thơ ta có cảm giác đã có sự điên đảo, tráo trở ý nghĩa trong một cấu trúc cú pháp thuận. Hình ảnh thơ quả khó phân tích chỉ có thể cảm giác nó đẹp đến lạ! hiền hoà đến thú vị ! Và hình ảnh những “cô nàng yếm thắm cúi cuốc cào cỏ” được miêu tả bằng bốn phụ âm liền nhau với những từ vừa gợi hình vừa gợi thanh làm tăng giá trị tạo hình của bức tranh quê tràn trề sức sống. Và những hình ảnh màu sắc nữa. Trên nền cỏ biếc xanh, giữa sắc xanh của lúa vụt hiện lên màu “yếm thắm” có giá trị thẩm mĩ sâu sắc, làm tươi hẳn sắc trời đang ũ rũ “trong mưa bụi êm”, “hoa tím rụng tơi bời”. Tuy vậy, hai khổ thơ vẫn chưa thật sự truyền tải rung cảm mãnh liệt đến với người đọc. Hai khổ thơ hình như chưa có sự bùng vỡ của cảm xúc, tình thơ hình như chưa kết dính với cảnh thơ. Có gì đó hình như là hờ hững, hình như là lơi là nhịp kể, điệu tả hơn là tải được hồn sâu của cái đẹp thiên nhiên và cuộc sống ?
Tuy vậy, có thể nói “Chiều xuân” là một bài thơ hay, bộc lộ được tình cảm quê hương đậm đà của nhà thơ. Dù hình thức thơ tám chứ đều đặn có phần hạn chế âm điệu thơ, từ ngữ có chỗ còn mộc, ý tứ thiếu cô đọng; nhưng bài thơ đã có sự kết tụ chất ca dao trong ngôn ngữ, trong cảm xúc, biểu hiện được tâm hồn dân tộc. Phải yêu quê nhà thơ mới có sự chắt lọc bao nhiêu cảm xúc để có thể tái hiện tạo vật thiên nhiên quê hương như một khách thể. Trong không khí buồn sâu, sầu nặng của Thơ mới, Chiều xuân có vị trí riêng nhờ vào sự hiền lành chữ nghĩa, của tình thơ của nó. Đúng như Anh Thơ đã quan niệm chăng: "Thơ phải ngắn gọn, không nên rườm rà, phải nói ít viết ít mà người đọc lại hiểu nhiều. Thơ hay phải là những gì tinh túy, vĩnh cửu nhất từ trong tâm hồn con người. Người làm thơ cũng đừng cầu kỳ câu chữ quá mà khiến cho người đọc khi đọc rồi cứ phải suy luận.".
4.2. Bài thơ Bến đò ngày mưa.
Tre rũ rợi ven bờ chen ướt át,
Chuối bơ phờ đầu bến đứng giầm mưa.
Và giầm mưa dòng sông trôi rào rạt
Mặc con thuyền cắm lái đậu chơ vơ.
Trên bến vắng, đắm mình trong lạnh lẽo,
Vài quán hàng không khách đứng co ro.
Một bác lái ghé buồm vào hút điếu
Mặc bà hàng sù sụ sặc hơi, ho.
Ngoài đường lội hoạ hoằn người đến chợ
Thúng đội dầu như đội cả trời mưa
Và hoạ hoằn một con thuyền ghé chở
Rồi âm thầm bến lại lặng trong mưa.Bài thơ dựng lại một khung cảnh bến đò nhỏ nơi làng quê vào ngày mưa. Nét vẽ thơ là nét tả thực, không bộn bề chi tiết, nhưng cũng gợi được cái hồn xưa cảnh cũ của thôn cảnh xứ Bắc thuở nào. Cái hay của bài thơ là mỗi nét vẽ đượm thấm chất hồn nhiên của cảnh quyện lẫn với sự hồn nhiên của tâm hồn thi nhân. Bức tranh bến đò ngày mưa vì thế mà có hồn vía, có nét đẹp riêng.
Bài thơ mở ra là cảnh ven bờ, đầu bến. Trong không gian nghiêng nghiêng xa cách ấy, những tạo vật tre, chuối, dòng sông, con đò - những hình ảnh quen thuộc ở làng quê Bắc Bộ - như đang phơi mình tắm mưa.
Tre rũ rợi ven bờ chen ướt át,
Chuối bơ phờ đầu bến đứng giầm mưa.
Và giầm mưa dòng sông trôi rào rạt
Mặc con thuyền cắm lái đậu chơ vơ.Tạo vật thiên nhiên tưởng như có chung một nỗi niềm, ngỡ như sum vầy, chung cùng một tình điệu mưa, cùng giầm mưa, ướt át . Thế mà, ở chúng chẳng có sợi tơ mảnh liên hệ nào. Mỗi tạo vật là một hồn đơn, có sự sống riêng. Sở dĩ cảm nhận được như vậy là nhờ nhà thơ đã cài vào thơ những từ ngữ: rũ rượi, chen, bơ phờ, trôi rào rạt, chơ vơ,… rất nghệ thuật ứng với mỗi sự vật. Tre chen chúc nhau tìm hơi ấm. Chuối bất lực đành chịu bơ phờ trong mưa giầm. Dòng sông xuôi nhanh trốn mưa bỏ mặc con đò trơ vơ dưới mưa. Phải có con mắt tinh tế mới khám phá được nét riêng của tạo vật, mới cấp cho chúng một nét đẹp tâm hồn như thế.
Cảnh đầu bến ven bờ là vậy. Còn cảnh bến đò, trung tâm của bức tranh càng vắng lặng hơn trong mưa lạnh.
Trên bến vắng, đắm mình trong lạnh lẽo,
Vài quán hàng không khách đứng co ro.
Một bác lái ghé buồm vào hút điếu
Mặc bà hàng sù sụ sặc hơi, ho.Không gian thơ đã có sự chuyển dịch từ sông đến bến, từ mưa đến lạnh, từ bến vắng đến quán nghèo và hẹp. Đắm mình trong không gian ấy là những quán hàng ế khách đang co ro vì lạnh và hai con người với hai hoạt động “thù nghịch” nhau, nối kết nhau. Ba hình ảnh vừa gợi được cái lạnh của mưa, vừa gợi được không khí vắng lặng của bến đò vừa gợi được sự ấm áp của lòng người. Giả như khổ thơ không có âm thanh rít lên của điếu thuốc lào, tiếng họ sù sụ vì sặc khói thuốc của bà hàng thì có lẽ thơ cũng chỉ như quán hàng không khách đứng co ro mà thôi. Thơ lúc ấy chỉ là thơ mặt phẳng, đâu còn là thơ sự sống ba chiều.
Mạch thơ như mở rộng ra. Không gian ngoại vi bến đò đã có phần đông người hơn.
Ngoài đường lội hoạ hoằn người đến chợ
Thúng đội dầu như đội cả trời mưa
Và hoạ hoằn một con thuyền ghé chở
Rồi âm thầm bến lại lặng trong mưa.Khổ thơ có hai nét cảnh với hai không gian con đường và bến sông. Hai không gian gợi sự chuyển vận, gợi sự sống của con người. Thế nhưng, sức sống ở làng quê cũng chỉ là hoạ hoằn người, hoạ hoằn thuyền (một hoán dụ nghệ thuật) đứt quãng để lại những khoảng hở lạnh giữa đất trời và trong lòng người.
Hai câu đầu vẽ ra không gian con đường ướt sủng nước mưa lầy lội. Trên con đường đó, những người dân quê thưa thớt đến chợ quê. Cảnh chẳng có chút gì vui. Cuộc sống người dân quê ngày xưa là thế. Người dân quê với những phiên chợ nghèo trong những ngày tạnh ráo đã buồn rồi huống hồ là phiên chợ ngày mưa ! Thế nên, con người có rời rạc đến phiên chợ buồn cũng chẳng có gì là lạ. Anh Thơ hẳn đã sống sâu với người dân quê mới có được một câu thơ thực đến thế. Nhưng nữ sĩ là một nhà thơ lãng mạn nên hình ảnh thơ từ cõi thực đã bay vào cõi ảo: Thúng đội đầu như đội cả trời mưa. Một câu thơ đẹp đến say người. Câu thơ như là một nốt nhấn trong một bản đàn cung trầm. Câu thơ đẹp nhờ một lối so sánh đẹp. Người dân quê nghèo nhưng tâm hồn cũng dào dạt chất thơ.
Hai câu kết là không gian bến sông, nhưng thực ra là cả dòng sông dài qua hoạt động của thuyền đến đỗ bến rồi ra đi. Nhà thơ đã lấy động để nói tĩnh gợi được cái vắng của sông: hoạ hoằn con thuyền đến chở và cái lặng của bến lại lặng trong mưa. Bài thơ mở ra là ven bờ, đầu bến và khép lại với hình ảnh bến âm thầm lặng trong mưa. Bài thơ như vậy là có một cái tứ xuyên suốt: nỗi buồn của một hồn thơ trước cảnh quê mưa giầm, một nỗi buồn lặng như bến cô đơn đang cảm nghe mưa ngoài trời hoá thành mưa trong lòng của một hồn thơ lãng mạn.
Bến đò ngày mưa có cấu trúc chặt chẽ, chi tiết bình thường đã được nhà thơ thổi vào đấy sức sống mới nên có sức hấp dẫn riêng. Bài thơ tái hiện không khí vắng vẻ, ngưng đọng cũ kĩ ở chốn quê một thời đã qua, nên có thể xem bài thơ như là một chứng tích văn hoá của quê hương Việt một thời đã qua, nhưng lại là một thời để nhớ, để yêu. Đó là điều đáng trân trọng của hồn thơ Anh Thơ.
5. Qua Bức tranh quê, dù có thế này hay thế khác, Anh Thơ cũng xứng đáng ngồi ở chiếu trên hơn các nữ sĩ cùng trào lưu Thơ mới như Thu Hồng, Vân Đài, Mộng Tuyết, Hằng Phương,… và ngồi cùng các nhà thơ nam giới khác trong thi đàn này để cùng nhắp chén rượu thơ hiện đại Việt Nam.
Nhà thơ Vũ Quần Phương đã viết: "Khi chị đến thì phong trào Thơ mới đã ổn định với các tên tuổi tiêu biểu của nó, nhưng chị vẫn có đóng góp riêng: những bức tranh thôn quê xứ Bắc. Cùng với Nguyễn Bính, Đoàn Văn Cừ, Bàng Bá Lân... Anh Thơ làm giàu thêm lòng yêu quê hương làng nước của người Việt Nam mình".
Hoàng Dục
12 - 2008
Lũ cò con chốc chốc vụt bay ra.
Làm giật mình một cô nàng yếm thắm,
Cúi cuốc cào cỏ ruộng sắp ra hoa.
Không gian thơ không đơn thuần chỉ tràn ra theo bề rộng mà đang vút lên theo chiều cao. Sắc cỏ non trải mở đến mênh mang, đàn sáo đen sà xuống, những chú cò con bay lên và có cả bóng hình một cô yếm thắm. Tất cả tạo hồn cho quang cảnh làng quê vào một chiều xuân thơ mộng. Bức tranh quê sáng lên, sinh sắc hơn. Chi tiết “cỏ non tràn biếc cỏ” với sự mở khép của từ “cỏ” gợi hình ảnh con đường đê giàu sức sống, sắc cỏ xanh rói tươi, nõn nường như sinh sôi ào ạt. Bên cạnh đó, những hình ảnh người và vật đều xuất hiện với dáng vẻ bình yên gợi cảm giác thong dong của cuộc sống thanh hiền hoà sau luỹ tre xanh.
Bức tranh sống động không nhờ ở những chi tiết động mà còn ở sự sáng tạo nhưng hình ảnh độc đáo và sự phối màu nhuần nhị. Hình ảnh “những trâu bò thong thả cúi ăn mưa” quả khó nắm bắt ý nghĩa của nó. Đọc câu thơ ta có cảm giác đã có sự điên đảo, tráo trở ý nghĩa trong một cấu trúc cú pháp thuận. Hình ảnh thơ quả khó phân tích chỉ có thể cảm giác nó đẹp đến lạ! hiền hoà đến thú vị ! Và hình ảnh những “cô nàng yếm thắm cúi cuốc cào cỏ” được miêu tả bằng bốn phụ âm liền nhau với những từ vừa gợi hình vừa gợi thanh làm tăng giá trị tạo hình của bức tranh quê tràn trề sức sống. Và những hình ảnh màu sắc nữa. Trên nền cỏ biếc xanh, giữa sắc xanh của lúa vụt hiện lên màu “yếm thắm” có giá trị thẩm mĩ sâu sắc, làm tươi hẳn sắc trời đang ũ rũ “trong mưa bụi êm”, “hoa tím rụng tơi bời”. Tuy vậy, hai khổ thơ vẫn chưa thật sự truyền tải rung cảm mãnh liệt đến với người đọc. Hai khổ thơ hình như chưa có sự bùng vỡ của cảm xúc, tình thơ hình như chưa kết dính với cảnh thơ. Có gì đó hình như là hờ hững, hình như là lơi là nhịp kể, điệu tả hơn là tải được hồn sâu của cái đẹp thiên nhiên và cuộc sống ?
Tuy vậy, có thể nói “Chiều xuân” là một bài thơ hay, bộc lộ được tình cảm quê hương đậm đà của nhà thơ. Dù hình thức thơ tám chứ đều đặn có phần hạn chế âm điệu thơ, từ ngữ có chỗ còn mộc, ý tứ thiếu cô đọng; nhưng bài thơ đã có sự kết tụ chất ca dao trong ngôn ngữ, trong cảm xúc, biểu hiện được tâm hồn dân tộc. Phải yêu quê nhà thơ mới có sự chắt lọc bao nhiêu cảm xúc để có thể tái hiện tạo vật thiên nhiên quê hương như một khách thể. Trong không khí buồn sâu, sầu nặng của Thơ mới, Chiều xuân có vị trí riêng nhờ vào sự hiền lành chữ nghĩa, của tình thơ của nó. Đúng như Anh Thơ đã quan niệm chăng: "Thơ phải ngắn gọn, không nên rườm rà, phải nói ít viết ít mà người đọc lại hiểu nhiều. Thơ hay phải là những gì tinh túy, vĩnh cửu nhất từ trong tâm hồn con người. Người làm thơ cũng đừng cầu kỳ câu chữ quá mà khiến cho người đọc khi đọc rồi cứ phải suy luận.".
4.2. Bài thơ Bến đò ngày mưa.
Tre rũ rợi ven bờ chen ướt át,
Chuối bơ phờ đầu bến đứng giầm mưa.
Và giầm mưa dòng sông trôi rào rạt
Mặc con thuyền cắm lái đậu chơ vơ.
Trên bến vắng, đắm mình trong lạnh lẽo,
Vài quán hàng không khách đứng co ro.
Một bác lái ghé buồm vào hút điếu
Mặc bà hàng sù sụ sặc hơi, ho.
Ngoài đường lội hoạ hoằn người đến chợ
Thúng đội dầu như đội cả trời mưa
Và hoạ hoằn một con thuyền ghé chở
Rồi âm thầm bến lại lặng trong mưa.Bài thơ dựng lại một khung cảnh bến đò nhỏ nơi làng quê vào ngày mưa. Nét vẽ thơ là nét tả thực, không bộn bề chi tiết, nhưng cũng gợi được cái hồn xưa cảnh cũ của thôn cảnh xứ Bắc thuở nào. Cái hay của bài thơ là mỗi nét vẽ đượm thấm chất hồn nhiên của cảnh quyện lẫn với sự hồn nhiên của tâm hồn thi nhân. Bức tranh bến đò ngày mưa vì thế mà có hồn vía, có nét đẹp riêng.
Bài thơ mở ra là cảnh ven bờ, đầu bến. Trong không gian nghiêng nghiêng xa cách ấy, những tạo vật tre, chuối, dòng sông, con đò - những hình ảnh quen thuộc ở làng quê Bắc Bộ - như đang phơi mình tắm mưa.
Tre rũ rợi ven bờ chen ướt át,
Chuối bơ phờ đầu bến đứng giầm mưa.
Và giầm mưa dòng sông trôi rào rạt
Mặc con thuyền cắm lái đậu chơ vơ.Tạo vật thiên nhiên tưởng như có chung một nỗi niềm, ngỡ như sum vầy, chung cùng một tình điệu mưa, cùng giầm mưa, ướt át . Thế mà, ở chúng chẳng có sợi tơ mảnh liên hệ nào. Mỗi tạo vật là một hồn đơn, có sự sống riêng. Sở dĩ cảm nhận được như vậy là nhờ nhà thơ đã cài vào thơ những từ ngữ: rũ rượi, chen, bơ phờ, trôi rào rạt, chơ vơ,… rất nghệ thuật ứng với mỗi sự vật. Tre chen chúc nhau tìm hơi ấm. Chuối bất lực đành chịu bơ phờ trong mưa giầm. Dòng sông xuôi nhanh trốn mưa bỏ mặc con đò trơ vơ dưới mưa. Phải có con mắt tinh tế mới khám phá được nét riêng của tạo vật, mới cấp cho chúng một nét đẹp tâm hồn như thế.
Cảnh đầu bến ven bờ là vậy. Còn cảnh bến đò, trung tâm của bức tranh càng vắng lặng hơn trong mưa lạnh.
Trên bến vắng, đắm mình trong lạnh lẽo,
Vài quán hàng không khách đứng co ro.
Một bác lái ghé buồm vào hút điếu
Mặc bà hàng sù sụ sặc hơi, ho.Không gian thơ đã có sự chuyển dịch từ sông đến bến, từ mưa đến lạnh, từ bến vắng đến quán nghèo và hẹp. Đắm mình trong không gian ấy là những quán hàng ế khách đang co ro vì lạnh và hai con người với hai hoạt động “thù nghịch” nhau, nối kết nhau. Ba hình ảnh vừa gợi được cái lạnh của mưa, vừa gợi được không khí vắng lặng của bến đò vừa gợi được sự ấm áp của lòng người. Giả như khổ thơ không có âm thanh rít lên của điếu thuốc lào, tiếng họ sù sụ vì sặc khói thuốc của bà hàng thì có lẽ thơ cũng chỉ như quán hàng không khách đứng co ro mà thôi. Thơ lúc ấy chỉ là thơ mặt phẳng, đâu còn là thơ sự sống ba chiều.
Mạch thơ như mở rộng ra. Không gian ngoại vi bến đò đã có phần đông người hơn.
Ngoài đường lội hoạ hoằn người đến chợ
Thúng đội dầu như đội cả trời mưa
Và hoạ hoằn một con thuyền ghé chở
Rồi âm thầm bến lại lặng trong mưa.Khổ thơ có hai nét cảnh với hai không gian con đường và bến sông. Hai không gian gợi sự chuyển vận, gợi sự sống của con người. Thế nhưng, sức sống ở làng quê cũng chỉ là hoạ hoằn người, hoạ hoằn thuyền (một hoán dụ nghệ thuật) đứt quãng để lại những khoảng hở lạnh giữa đất trời và trong lòng người.
Hai câu đầu vẽ ra không gian con đường ướt sủng nước mưa lầy lội. Trên con đường đó, những người dân quê thưa thớt đến chợ quê. Cảnh chẳng có chút gì vui. Cuộc sống người dân quê ngày xưa là thế. Người dân quê với những phiên chợ nghèo trong những ngày tạnh ráo đã buồn rồi huống hồ là phiên chợ ngày mưa ! Thế nên, con người có rời rạc đến phiên chợ buồn cũng chẳng có gì là lạ. Anh Thơ hẳn đã sống sâu với người dân quê mới có được một câu thơ thực đến thế. Nhưng nữ sĩ là một nhà thơ lãng mạn nên hình ảnh thơ từ cõi thực đã bay vào cõi ảo: Thúng đội đầu như đội cả trời mưa. Một câu thơ đẹp đến say người. Câu thơ như là một nốt nhấn trong một bản đàn cung trầm. Câu thơ đẹp nhờ một lối so sánh đẹp. Người dân quê nghèo nhưng tâm hồn cũng dào dạt chất thơ.
Hai câu kết là không gian bến sông, nhưng thực ra là cả dòng sông dài qua hoạt động của thuyền đến đỗ bến rồi ra đi. Nhà thơ đã lấy động để nói tĩnh gợi được cái vắng của sông: hoạ hoằn con thuyền đến chở và cái lặng của bến lại lặng trong mưa. Bài thơ mở ra là ven bờ, đầu bến và khép lại với hình ảnh bến âm thầm lặng trong mưa. Bài thơ như vậy là có một cái tứ xuyên suốt: nỗi buồn của một hồn thơ trước cảnh quê mưa giầm, một nỗi buồn lặng như bến cô đơn đang cảm nghe mưa ngoài trời hoá thành mưa trong lòng của một hồn thơ lãng mạn.
Bến đò ngày mưa có cấu trúc chặt chẽ, chi tiết bình thường đã được nhà thơ thổi vào đấy sức sống mới nên có sức hấp dẫn riêng. Bài thơ tái hiện không khí vắng vẻ, ngưng đọng cũ kĩ ở chốn quê một thời đã qua, nên có thể xem bài thơ như là một chứng tích văn hoá của quê hương Việt một thời đã qua, nhưng lại là một thời để nhớ, để yêu. Đó là điều đáng trân trọng của hồn thơ Anh Thơ.
5. Qua Bức tranh quê, dù có thế này hay thế khác, Anh Thơ cũng xứng đáng ngồi ở chiếu trên hơn các nữ sĩ cùng trào lưu Thơ mới như Thu Hồng, Vân Đài, Mộng Tuyết, Hằng Phương,… và ngồi cùng các nhà thơ nam giới khác trong thi đàn này để cùng nhắp chén rượu thơ hiện đại Việt Nam.
Nhà thơ Vũ Quần Phương đã viết: "Khi chị đến thì phong trào Thơ mới đã ổn định với các tên tuổi tiêu biểu của nó, nhưng chị vẫn có đóng góp riêng: những bức tranh thôn quê xứ Bắc. Cùng với Nguyễn Bính, Đoàn Văn Cừ, Bàng Bá Lân... Anh Thơ làm giàu thêm lòng yêu quê hương làng nước của người Việt Nam mình".
Hoàng Dục
12 - 2008
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét