A. Ca dao là thơ ca dân gian:
1. Những nghệ nhân ưu tú dân gian thường gọi những tác phẩm thơ ca của mình là những câu ví, bài ví:
Bực mình chẳng muốn nói ra
Những câu ví vặt xếp ba gian đình.
Những câu ca ví, hát ví đó ngày nay gọi là ca dao. Ca dao có nhiều khái niệm khác nhau(1), nhưng nhìn chung, ca dao cũng có đặc trưng như thơ trữ tình, đó là chất thơ.
1. Những nghệ nhân ưu tú dân gian thường gọi những tác phẩm thơ ca của mình là những câu ví, bài ví:
Bực mình chẳng muốn nói ra
Những câu ví vặt xếp ba gian đình.
Những câu ca ví, hát ví đó ngày nay gọi là ca dao. Ca dao có nhiều khái niệm khác nhau(1), nhưng nhìn chung, ca dao cũng có đặc trưng như thơ trữ tình, đó là chất thơ.
2. Trong Phê bình văn học, NXB Văn học, HN, 1962, tr. 194, Chế Lan Viên khẳng định: "Cái hay của thể loại văn học là thể loại nào phải có đặc tính riêng biệt của thể loại ấy".
Hiểu theo ý nghĩa của ý kiến này, thơ có đặc tính riêng của nó. Đặc
tính riêng của thơ trước hết là chất thơ. Chất thơ là vẻ đẹp của tâm
hồn, của tình cảm; chất thơ là một nhịp cầu giao cảm; là sức đồng vọng
kì diệu của tác phẩm, có sức lay động, lan toả và thấm sâu vào tâm hồn
người đọc mọi thời. Chính vì vậy, bàn về thơ các nhà thơ, các nhà phê
bình thường nói đến chất thơ tâm hồn ấy. "Thơ
là tiếng nói hồn nhiên nhất của tâm hồn con người trước cuộc đời, trước
tất cả những gì diễn ra chung quanh mình, là tiếng nói tâm hồn con
người trước con người và trời đất. Tiếng nói hồn nhiên ấy có vang được
bao nhiêu, ấy là thơ có chất bấy nhiêu" (Tố Hữu). "Thơ
là chuyện đồng điệu. Nó là tiếng nói của người nào đó đến với người nào
đó có sự cảm thông chung dựa trên cơ sở đồng ý, đồng tình" (Tố Hữu). "Thơ
là tiếng nói tâm hồn, ai có tâm hồn và nói lên được tiếng nói ấy, đây
là thi sĩ và năng khiếu về thơ có thể rơi vào tay một người nông dân
cũng như một người quý tộc" (Goeth). Cần lưu ý, nói đặc trưng của
thơ là chất thơ là nói đến phẩm chất riêng của thơ; còn trong thực tiễn
đời sống văn học, các thể loại khác cũng có chất thơ, nhưng không phải
là một đặc trưng mà là một nét phong cách hay là một thuộc tính.
Thơ ca dân gian cũng là tiếng nói tâm hồn của người bình dân, có sức ngân vọng, thấm lan vào tâm hồn người đọc bao đời nay. Cho nên, ca dao “đó là tinh hoa của nền văn học dân tộc, là văn học cao nhất. Ai am hiểu về thơ, đọc ca dao mới thấy sợ. Quy luật của văn học, cái gì hay nhất thì được phổ cập nhất” (Nguyễn Đình Thi). Đọc ca dao vì thế chỉ có thể đem tấm lòng mà cảm mà hiểu cái tình ý bên trong câu thơ. Nếu chỉ dựa vào câu chữ, cái diễn tả, làm sao ta có thể hiểu được vẻ đẹp tâm hồn của một người đang say tình và đang hạnh phúc trong tình yêu qua câu ca dao:
Ra đường em mãi nhìn anh
Để chân em vấp đổ thành nhà vua.
Hay làm sao ta có thể rung cảm, đồng cảm cùng tâm trạng căng thẳng, lo âu đến chóng mặt của cô gái qua cái nhìn đắm say bền bỉ của trái tim:
Thương người, người chẳng biết cho,
Cầm bằng gánh nặng mà dò đường trơn.
Và là sao hiểu được tấc hồn xa xót vì hoàn cảnh éo le của những người phụ nữ:
- Sự đời nước mắt soi gương,
Càng yêu mến lắm càng thương nhớ nhiều.
- Bướm vàng đậu đọt mù u,
Lấy chồng càng sớm tiếng ru càng buồn.
Tóm lại, ca dao là thơ, xét về mặt thể loại, về chất thơ toả ra trong nó. Ca dao là thơ ca nói được cái hồn nhiên của tâm hồn qua cách diễn đạt tự nhiên của lời văn nghệ thuật; nhưng lại gợi lên được sự thẳm sâu của tâm hồn, một điệu tâm tình, một sắc thái cảm của nhân dân trước con người và cuộc đời, trước con người và trời đất.
B. Vẻ đẹp của nghệ thuật của ca dao:
I. Vẻ đẹp của thể thơ:
Mỗi dân tộc đều có một thể thơ truyền miệng phù hợp với khẩu ngữ, với qui luật hài hoà thanh điệu, ngữ âm của dân tộc mình. Thể thơ lục bát ra đời từ đấy.
1. Thể thơ
a. Lục bát: Lục bát là thể thơ cổ của văn học Việt Nam, cho nên rất gắn bó mật thiết với ca dao. Và chỉ với ca dao thể lục bát mới phát huy được những phẩm chất hình thức thể loại của nó. Thể thơ lục bát đẹp đến kì diệu, đúng như Nguyễn Đình Thi đã viết: “Câu dài câu ngắn khác nhau, vần trong câu xen kẽ vần cuối câu, tiếng lên tiếng xuống khiến cho nhạc điệu thay đổi được dễ dàng và nhịp mau thưa biến hoá dưới bút nhà thơ”.
b. Các thể lục bát.
- Lục bát chính thể: một dòng sáu tiếng, một dòng tám tiếng.
- Lục bát biến thể: gồm các dạng sau:
+ Thêm - bớt một số tiếng ở dòng lục.
Thấy nói mà chua,
Bồ hòn có ngọt thì vua đã dùng.
Nếu ở dòng sáu: “Trò đời thấy nói mà chua” thì câu ca dao mất đi tính hàm súc, ý nghĩa thơ không mạnh, giọng điệu mất đi sự đay nghiến, mỉa mai.
Chập chập, cheng cheng
Con gà trống thiến để riêng cho thầy.
Đơm xôi thì đơm cho đầy,
Chớ đơm vơi đĩa, thánh nhà thầy mất thiêng.
Có bản chép: Chập chập rồi lại cheng cheng. Câu ca dao giọng điệu có vẻ khề khà; còn dòng bốn tiếng có giọng diễu nhại nhịp, âm thanh tiếng chiêng của ông thầy cúng, vừa tái hiện không khí cúng bái giả tạo, vừa gợi tâm lí tham lam, ích kỉ của ông ta. Đọc câu ca dao ta nghê đâu đây như có tiếng cười khẩy, như thấy cái bỉu môi mai mỉa dài thườn thược.
Nhìn ra sông cái,
Nhìn ngoái thấy đình,
Hạc chầu kia còn đủ cặp, huống chi mình lẻ đôi !
Trong trường hợp này, dòng sáu mở rộng thêm hai tiếng, nhưng tạo thành hai dòng điệp song hành, gợi âm hưởng như một điệp khúc tâm trạng, những lớp sóng tình cảm. Chính nhờ sự mở rộng dòng sáu mà dòng tám cũng mở rộng thêm số tiếng khiến nhịp thơ khi mau, khi nhặt; ý thơ quyện lại chặt chẽ, dồn rút lại càng khơi sâu nỗi niềm cô đơn của chủ thể trữ tình trong thơ.
Một trường hợp khác, dòng sáu tám tiếng, khiến sắc thái ngữ điệu thay đổi:
Mình nói với ta: mình hãy còn son;
Ta đi qua ngõ thấy con mình bò.
Con mình những trấu cùng tro,
Ta đi gánh nước tắm cho con mình(1).
Vế sáu tiếng tách thành hai nhịp, nhưng mạch thơ không đứt đoạn mà liền hơi, liền mạch. Câu thơ là một lời trách yêu, trách thương, nhẹ nhàng. Trách mà vẫn cảm thông, chia sẻ. Vì thế mà giọng dịu dàng, nhạc thơ êm nhẹ. Trách nhưng thực tâm lại băn khoăn cho hoàn cảnh hiện tại của người bạn gái: nghèo, neo đơn, chẳng ai giúp đỡ nên đứa trẻ mới lê la một mình, nhếch nhác, lấm láp đến thế.
+ Thêm - bớt số tiếng ở dòng bát.
Lục bát biến thể trong ca dao nhiều khi dòng sáu giữ nguyên số tiếng chỉ mở rộng dòng tám; cùng có khi mở cả dòng sáu và dong tám.
Hai tay bưng dĩa bánh bò,
Chân đi khé né,
Tối trời sợ té,
Giấu cha giấu mẹ cho trò đi thi.
Câu ca dao có sự xen giặm vào câu tám tiêng những dòng thơ ngắn tạo nhịp điệu, dáng điệu bước đi và diễn tả được nét riêng tâm trạng của người trong cuộc. Câu ca dao có cả ngoại cảnh và nội tâm, nên ý tình kín đáo mà có sức đồng vọng thiết tha.
+ Có khi hai dòng thơ đều có sự mở rộng số tiếng.
Thương nhau tam tứ núi cũng trèo,
Ngũ lục sông cũng lội, tứ cửu tam thập lục đèo cũng qua.
kéo dài số tiếng ở hai vế với những Hán - Việt, thanh trắc, nên câu ca dao có nhịp điệu trúc trắc gợi sự trắc trở của không gian, nhưng lại thể hiện được tấm tình chung sáng tỏ theo thời gian.
+ Thể lục bát còn có nhiều dạng biến thể linh hoạt, uyển chuyển đầy sáng tạo của nhân dân. Nội dung tình cảm của thơ chi phối hình thức thơ. Do vậy, ở ca dao còn có sự kết hợp thể lục bát với lối nói lối (vãn bốn vãn năm), hoặc kết hợp lục bát với hai dòng ngũ ngôn, lục ngôn, thất ngôn. Đây là một hình thức nghệ thuật thể loại in đậm dấu ấn sáng tạo của dân tộc ta. Có người cho rằng đây là thể lục bát gián thất, nhưng hai câu thất ngôn có thể giữ nguyên số tiếng hoặc co lại, dù thế nào vẫn giữ cách hiệp vần như hai câu thất ngôn.
Có bài câu “song thất” chỉ còn năm tiếng:
Quế càng già càng tốt,
Mía càng đốt càng ngon,
Anh thương em đặng nghĩa vuông tròn,
Mấy sông cũng lội mấy hòn cũng leo.
Có bài câu “song thất” chỉ còn sáu tiếng:
Làm trai giữ mưu giữ kế,
Làm gái giữ thế giữ thần,
Miệng đời bén tựa gươm trần,
Thương anh không dám lại gần bên anh.
Và:
Tay lại bắt tay cho chặt,
Mặt lại nhìn mặt cho tường,
Hai ta cách trở đôi phương,
Nhắn nhe cùng bạn: giận hờn chi không ?
Có khi là hai dòng tám tiếng:
Nước chảy xuôi con cá buôi lội ngược
Nước chảy ngược con cá vược lội ngang
Thuyền em xuống bến Thuận An(1)
Thuyền anh lại trảy lên ngàn anh ơi !
Lại có khi hai câu bảy tiếng chuyển thành câu lục bát vần trắc:
Tò vò mà nuôi con nhện,
Đến khi nó lớn nó quện nhau đi.
Tò vò ngồi khóc tỉ ti,
Nhện ơi, nhện hỡi ! mày đi đường nào ?
Cũng có bài ca dao, có sự mở rộng các dòng thơ:
Nước xanh xanh chảy quanh cồn cát trắng,
Con chim phượng hoàng rày vắng tiếng kêu.
Hỡi người thương cho ta nhắn một đôi điều,
Dẫu rằng sớm quán chiều lều ta cũng thương.
Khi tình duyên đảo hướng đổi chiều, bài ca dao có những biến tấu phong phú:
Anh nói với em như rìu chém xuống đá,
Như rạ (rựa) chém xuống đất,
Như mật rót vào tai,
Bây giờ anh đã nghe ai,
Bỏ em giữa chốn non đoài, khổ chưa !
c. Thể thơ ca dao giàu âm thanh, nhịp điệu và tiết tấu:
Do thể thơ lắm biến hoá như đã nêu trên và cách khai thác nhạc tính của ngôn từ nghệ thuật nên ca dao rất giàu âm điệu.
- Âm thanh: Không một câu lục bát nào mà âm thanh không dồi dào. Có khi thanh điệu êm dịu:
Ai đi đường ấy xa xa
Để em ôm bóng trăng tà năm canh
Có khi réo rắc nặng nề:
Sóng sình sịch lưng chừng ngoài biển Bắc
Hạt mưa tình réo rắc chốn hàng hiên.
- Vần điệu: Vần điệu của ca dao là vần điệu có tính dân tộc, thể hiện phong thái của dân tộc ta: tự nhiên, hồn nhiên, thoải mái và phóng khoáng. Nguyễn Đình Thi: “Dùng hình ảnh ta có thể ví lối thơ Đường luật như một chiếc bình pha lê kết tinh trong suốt, nhưng không đủ sức lôi cuốn ca một dòng sông. Thơ lục bát trái lại, hợp với tiếng nước ta hơn nên có thể dùng được nguồn cảm hứng tràn lan, đó là thể thơ ca hát kể chuyện của đại chúng”.
+ Vần bằng: điệu ca dao lục bát luôn thanh thoát êm đềm như nước chảy xuôi:
Thuyền tình đã ghé tới nơi
Khách tình sao chẳng sang chơi thuyền tình.
+ Vần trắc: tạo sự cọ xát với nhau diễn tả những nỗi niềm khúc mắc, tấm tức, không bình thường của tâm hồn:
Trèo lên cây bưởi hái hoa
Bước xuống vườn cà hái nụ tầm xuân
Nụ tầm xuân nở ra xanh biếc
Em có chồng rồi anh tiếc lắm thay.
(…)
- Tiết tấu:
Nước xanh xanh/ chảy quanh/ cồn cát trắng,
Con chim phượng hoàng/ rày/ vắng tiếng kêu.
Hỡi người thương/ cho ta nhắn/ một đôi điều,
Dẫu rằng/ sớm quán/ chiều lều/ ta cũng thương.
II. Vẻ đẹp của sự kết hợp nhuần nhuỵ giữa tính thơ và ngữ điệu của ngôn ngữ đời sống.
1. Ngữ điệu đời sống trong ngôn ngữ ca dao.
a. Pie Gamara: "Thi ca là tinh hoa tối cao của ngôn ngữ là cái ánh ngời phi thường của nó, cái chỗ rách cảm động của nó".
Ý kiến của Pie Gamara đề cao vẻ đẹp của ngôn ngữ thơ và cũng rất đúng với ngôn ngữ ca dao. Ngôn ngữ ca dao luôn hội tụ những đặc điểm cơ bản: cô đọng, súc tích, giàu hình tượng, có sức biểu cảm lớn như ngôn ngữ thơ; lại rất giản dị và tự nhiên.
Mỗi từ trong ca dao có một vị trí nhất định không thể thay thế được. chính ở vị trí ấy từ mới giữ được sự vẹn nguyên của sự hồn nhiên, thanh thoát, đẹp một vẻ đẹp mộc mạc của đời sống; nhưng bóng bẫy, có sức rung động và truyền cảm thơ. Nói cách khác ngôn ngữ ca dao là ngôn ngữ đời thường gần với khẩu ngữ, nhưng đậm chất thơ bởi có sự chuốt lọc, biểu cảm.
Đến với ca dao, ta như nghe được tiếng nói giao tiếp thường ngày, một ngôn ngữ tự nhiên mà có sức ngân rung của tâm hồn người bình dân, có độ nén của suy tư về những vấn đề nhân sinh sâu sắc:
- Nạ dòng vớ được trai tơ,
Đêm nằm hí hửng như mơ được vàng.
- Những người mặc nạc đóm dày,
Mo nang trôi sấp biết ngày nào khôn.
- Nhún mình nhún cả cây đa,
Nhún mình thì ít nhún ta thì nhiều.
- Nhớ ai bổi hổi bồi hồi,
Như đứng đống lửa như ngồi đống than.
Ngay những câu ca dao phảng kháng, ít nhiều có màu sắc tự sự, ngôn ngữ vẫn rất tự nhiên, nhưng đấy là cả một bức tranh tâm trạng nhiều màu sắc:
Mẹ em tham thúng xôi rền,
Tham con lợn béo tham tiền Cảnh Hưng.
Em đã bảo mẹ rằng đừng,
Mẹ hấm mẹ hứ mẹ bưng ngay vào.
Bây giờ kẻ thấp người cao,
Như đôi đũa lệch so sao cho bằng !
Với những bài ca dao viết theo thể hứng, lấy một sự vật hiện tượng để làm đà cho mạch cảm xúc tuôn chảy, lời thơ không giống câu nói bình thường, nhưng vẫn gần với cách nói ví von, nói bắc cầu trong khẩu ngữ dân gian.
- Một cành tre năm bảy cành tre,
Đẹp duyên thì lấy chớ nghe họ hàng.
- Mưa lâm thâm ướt dầm lá hẹ,
Em thương một người mất mẹ còn cha.
Lấy ai lo liệu việc nhà…
Như vậy, ngôn ngữ ca dao là ngôn ngữ nồng đượm chất thơ, chất thơ bay lên từ đời sống, toát ra từ ngôn ngữ đời thường, nhưng có sức lay động sâu xa xúc cảm của người đọc.
b. M. Gorki từng nhận định về ngôn ngữ trong văn học dân gian: “Văn học dân gian là ngọn nguồn đầu tiên của nghệ thuật ngôn ngữ”, vì đó là thứ ngôn ngữ có cái đẹp duyên dáng và phong phú của tiếng nói dân tộc. Tố Hữu cũng đã viết: “Theo tôi nghĩ, thơ hay thường mộc mạc, chất phác, không cần trang sức”. Và Nguyễn Đình Thi cũng nói tương tự: “Về ngôn ngữ (trong thơ) thì tôi lại rất thích cách nói nào bình thường ít “mỡ” mà nhiều gân cốt, càng ít hình dung từ càng tốt”.
Như thế, một đặc trưng nữa của ngôn ngữ ca dao là sự giản dị, một ngôn ngữ “đạm” nhưng dồi dào độ “nồng” của chất thơ, của cảm xúc và của chất đời.
Anh thương em, chớ cho ai biết.
Em thương anh cũng đừng nói thiệt cho ai hay.
Nữa mai miệng thế lắt lay,
Cực anh chín rưỡi, cực em đây mười phần.
Chính từ kho tàng ngôn ngữ ca dao, các nhà thơ dân tộc đã sáng tạo những câu thơ thật giản dị mà sâu sắc ý tứ; thơ của họ tưởng chừng không có sự gọt giũa, họ dùng chữ như tự nhiên lấy chữ từ vốn từ vựng của dân nhân.
- Bây giờ mới rõ tăm hơi,
Máu ghen đâu có lạ đời nhà ghen !
- Đừng điều nguyệt nọ hoa kia,
Ngoài ra ai có tiếc gì với ai.
(Nguyễn Du – Truyện Kiều)
- Hoa càng khoe tốt, tốt thì rữa;
Nước chớ cho đầy, đầy ắt vơi.
- Phượng những tiếc cao diều hãy lượn;
Hoa thì hay héo, cỏ thường tươi.
(Nguyễn Trãi – Quốc âm thi tập)
Cờ đương dở cuộc không còn nước;
Bạc chửa thâu canh đã chạy làng.
(Nguyễn Khuyến – Tự trào)
2. Ngôn ngữ ca dao là một kho tàng mĩ từ pháp (biện pháp tu từ, mĩ từ pháp)
a. Trong đời sống, nhân dân ta khi trò chuyện, giao tiếp bằng ngôn ngữ, họ đã sử dụng nhiều biện pháp tu từ. Theo tiến trình lịch sử, những biện pháp tu từ đó ngày càng phong phú thêm, nhất là càng dồi dào hơn trong ngôn ngữ ca dao.
b. Những biện pháp tu từ trong ngôn ngữ ca dao.
- Biện pháp so sánh, ví von:
- Tiếc thay cái đọi bịt vàng,
Đem ra đong cám lỡ làng duyên em.
- Anh về đi ngủ kẻo khuya,
Xấu chuôm cá nỏ vào đìa thì thôi.
- Đu đủ tía, giềng giềng cũng tía,
Khoai lang giâm, ngọn mía cũng giâm.
Củi kia chen lẫn với trầm,
Em giữ sao cho khỏi… kẻo lầm bớ em !
- Biện pháp tu từ ẩn dụ:
- Buổi chợ đông, con cá hồng anh chê lạt,
Buổi chợ tan rồi, con tép bạc anh cũng phải mua!...
- Tiếc thay cái giếng nước trong,
Để cho bèo tấm bèo ong dạt vào.
- Biện pháp tu từ hoán dụ:
- Tóc ngang lưng vừa chừng em bới,
Để chi dài bối rối dạ anh.
- Biện pháp tu từ nhân hoá:
Khăn thương nhớ ai,
Khăn rơi xuống đất,
Khăn thương nhớ ai,
Khăn vắt lên vai.
(…)
- Biện pháp tu từ trong ca dao phong phú, không thể kể hết. Có thể kể thêm một vài biện pháp nữa như:
+ Chơi chữ:
- Bà già đi chợ cầu Đông,
Bói xem một quẻ lấy chồng lợi chăng ?
Thầy bói đoán que xem rằng:
Lợi thù có lợi nhưng răng không còn.
- Đã sinh ra kiếp con tằm,
Không vương tơ nữa cũng nằm trong tơ.
- Đầu năm ăn quả thanh yên,
Cuối năm ăn bưởi cho nên đèo bòng.
+ Điệp ngữ, điệp từ láy lại:
- Mẹ mình khéo đẻ mình ra,
Đẻ mình ngày bốn đẻ ta ngày rằm.
Mình đen, ta cũng ngăm ngăm,
Mình về, ta gửi lời thăm mẹ mình.
- Chữ tình là chữ chi chi,
Ai chi chi cũng chi chi với tình !
- Chưa chi chi cả mới tình,
Có chi chi, đã gọi mình bằng… chi !
+ Sử dụng đại từ xưng hô, sáng tạo từ nghĩa mới:
- Đêm tà thấp thoáng bóng trăng,
Ai đem người ngọc thung thăng chốn này.
- Người thương ta để trên cơi,
Nắp vàng đậy lại để nơi giường thờ…
- Ai đi đường ấy xa xa,
Để em ôm bóng trăng tà năm canh.
- Chàng ơi phụ thiếp làm chi,
Thiếp là cơm nguội để khi đói lòng.
- Mình về để áo lại đây,
Để đêm đêm em đắp kẻo gió tây lạnh lùng.
- Đường xa ơi hỡi đường xa,
Đem sầu đến bỏ cho ta mà về.
- Con cuốc kêu réo rắt trên nguồn,
Gà rừng tao tác gọi con tha mồi.
Lạnh lùng thay láng giềng ơi,
Láng giềng lạnh ít sao tôi lạnh nhiều.
- Lúng ơi là liếng ơi,
Miệng cười lúng liếng có đôi đồng tiền.
- Búp hoa sen lai láng giữa hồ,
Anh đưa tay muốn bẻ sợ trong chùa có sư.
- Chính chuyên anh cũng được nhờ,
Lẳng lơ nào biết cõi bờ là đâu !
3. Tóm lại, ngôn ngữ ca dao là ngôn ngữ thơ nhưng là ngôn ngữ giản dị, gần với khẩu ngữ, có tính chất hồn nhiên, tự nhiên. Ngôn ngữ ca dao đẹp một vẻ đẹp như ý thơ của Raxun Gamzatôp:
Những chiếc bình đẹp nhất
Nặn từ đất bình thường.
Những câu thơ đẹp nhất,
Từ những chữ bình thường.
(Đaghetxtan của tôi)
III. Vẻ đẹp của hình ảnh trong ca dao.
1. Văn học phản ánh và biểu hiện đời sống, hiện thực khách quan bằng hình tượng. Ca dao là đời sống tâm hồn của con người, của dân tộc Việt bao đời nay thông qua hình tượng nghệ thuật độc đáo, đa dạng và phong phú về phương thức xây dựng và nội dung tư tưởng, tình cảm của nó. Hình tượng bao gồm hệ thống hình ảnh liên kết với nhau bằng mạch liên tưởng, cảm xúc tâm tình. Hình ảnh trong ca dao được xây dựng từ ngôn ngữ có tính ví von của người bình dân nhưng bảo đảm được tính cụ thể - cảm tính của văn học nghệ thuật.
2. Đến với kho tàng câu hát trữ tình dân gian, người đọc có thể cảm nhận sâu sắc câu nói về phép làm thơ của Lê Quý Đôn: “nói kị thẳng, ý kị rộng, mạch kị lộ”. Được như vậy là nhờ cách nói hình ảnh giản dị mà nén nhiều lớp nghĩa của ca dao. Thử đọc câu ca dao:
- Yêu nhau chẳng đặng thì thôi,
Cầm bằng nước đổ lỗ vôi, sá gì !
hình tượng đối tượng trữ tình kẻ phụ tình trong thơ hiện lên thật cụ thể sống động qua hình ảnh “nước đổ lỗ vôi”, qua từ ngữ “sá gì”.
- Hình ảnh ca dao dân dã, thấm đẫm màu sắc dân tộc. Ta có thể cảm nhận điều đó khi sống với ca dao:
- Tiếc thay hạt gạo tám xoan,
Nấu nồi đồng điếu lại chan nước cà.
- Tiếc thay hạt gạo trắng ngần,
Đã vo nước đục lại vần than rơm.
- Lọng vàng che nải chuối xanh,
Tiếc chim loan phượng đậu ngành tre khô.
- Hình ảnh ca dao quả là có nhiều biến hoá linh hoạt, cũng là hạt gạo ấy thôi mà khi thì “tám xoan”, khi thì “trắng ngần”, khi nấu, khi vo… đã diễn tả trọn vẹn nỗi buồn tiếc, xót xa của người con gái lệch duyên trong tình yêu và hôn nhân gia đình.
- Các nhà thơ trong văn học trung đại Việt Nam khắc hoạ chân dung của nhân vật nữ của mình bằng hình ảnh đắm say, bằng bút pháp lãng mạn, lí tưởng hoá; tạo nên hình tượng người phụ nữ đẹp tận thiện tận mĩ:
Chìm đáy nước cá lờ đờ lặn,
Lửng da trời, nhạn ngẩn ngơ sa.
Hương trời đắm nguyệt say hoa,
Tây Thi mất vía, Hằng Nga giật mình.
(Nguyễn Gia Thiều – Cung oán ngâm khúc)
Hay Nguyễn Du khi tả nàng Vân, nàng Kiều đẹp đến độ “mây thua”, “tuyết nhường”, “hoa ghen”, “liễu hờn”.
Với các tác giả dân gian, chân dung của những phụ nữ đồng áng được vẽ bằng chất liệu gần gũi, quanh quất trong cuộc sống của họ:
- Những người thắt đáy lưng ong,
Vừa khéo chiều chồng vừa khéo nuôi con.
- Những người con mắt lá răm,
Lông mày lá liễu thương năm nhớ mười.
- Cổ tay em trắng như ngà,
Con mắt em liếc như là dao cau.
Miệng cười như thể hoa ngâu,
Cái khăn đội đầu như thể hoa sen…
- Một thương tóc bỏ đuôi gà,
Hai thương ăn nói mặn mà có duyên.
Ba thương má lúm đồng tiền,
Bốn thương răng nhánh hạt huyền kém thua.
Chân dung của các cô thôn nữ trong ca dao đẹp không đến nỗi gây vạ cho người, làm nghiêng thành đổ nước; họ đẹp mặn mà, có cái duyên ngầm tạo được mĩ cảm trong lòng người đứng ngắm.
- Trong ca dao, có những mô-tip hình ảnh lặp lại thường gặp như: con cò, cái bống, trầu cau, trúc mai, bến thuyền,… có những hình ảnh không gian: đình, ngõ sau, bến, thuyền,.. có những hình thời gian: đêm đêm, chiều chiều, trăng sáng, trời mưa,…
- Để xây dựng hình ảnh ca dao có hai thủ pháp:
+ Thủ pháp so sánh
* So sánh trực tiếp:
Thân em như lá đài bi,
Ngày thì dãi nắng đêm thì dầm sương.
* Ẩn dụ (so sánh ngầm)
Mấy khi rồng gặp mây đây,
Để rồng than thở với mây đôi lời,
Nữa mai rồng ngược mây xuôi,
Biết bao giờ lại nối lời rồng mây.
* So sánh phức hợp nhiều tầng bậc.
- Tiếc thay quả hồng ngâm mà đem cho chuột vọc
Tiếc thay người ngọc mà để cho ngâu vầy.
- Ngày nào anh nói anh thương,
Như trầm mà để trong rương chắc rồi.
Bây giờ khoá rớt chìa rơi,
Rương long nắp vỡ, bay hơi mùi trầm.
+ Thủ pháp miêu tả:
- Đêm hỡi đêm trông cho mau sáng,
Ngày hỡi ngày tắt quáng cho mau
Để em ra khỏi cửa nhà giàu,
Kẻo nay cơm thừa mai canh cặn tối nằm sau xó lều.
- Thương thay thân phận con rùa,
Lên đình đội hạc xuống chùa đội bia
Thương thay lũ kiến li ti
Kiến ăn được mấy phải đi tìm mồi.
3. Nhìn chung, việc xây dựng hình ảnh trong ca dao truyền thống vẫn là được chọn lựa khá tinh tế, chặt chẽ theo những nguyên tắc về thẩm mĩ, về tâm lí học và theo yêu cầu biểu cảm hàm súc của thơ ca trữ tình nói chung.
C. Thi pháp của ca dao:
1. Thời gian và không gian nghệ thuật.
a. Thời gian nghệ thuật:
- Do sáng tác, diễn xướng, thưởng thức diễn ra trong một khoảnh khắc đương thời đang tiếp diễn nên thời gian của người sáng tác hoà lẫn với thời gian người diễn xướng nên thời gian nghệ thuật trong ca dao là thời gian hiện tại.
- Để diễn tả thời gian hiện tại, dân gian đã sử dụng hàng loạt cụm từ chỉ thời gian: “bây giờ”, “hôm nay”, “chiều chiều”, “đêm đêm”, “hôm qua”, “đêm qua”, “sáng ngày”, “khi xưa”,… Những cụm từ thời gian ấy nói lên thời gian nghệ thuật trong ca dao vừa là thời gian thực tại khách quan, vừa thời gian của sự tưởng tượng, hư cấu mang tính chủ quan của nhân vật trữ tình.
- Khi thời gian thuộc đối tượng phản ánh thì đó là thời gian thực tại kéo dài:
Tháng chạp là tháng trồng khoai,
Tháng giêng trồng đậu, tháng hai trồng cà…
nhưng có khi thời gian dồn dập không là đơn vị tháng nữa mà là ngày:
Một ngày hai bận trèo non,
Lấy gì mà đẹp mà giòn hỡi anh.
thậm chí đơn vị thời gian con ngắn hơn cả ngày:
Thân anh khó nhọc trăm phần,
Sớm đi ruộng lúa tối nằm ruộng dưa.
Vội đi quên cả cơm trưa,
Vội về quên cả trời mưa ướt đầu.
- Thời gian nhiều khi là một yếu tố góp phần tạo nên hoàn cảnh, một phương tiện nghệ thuật để biểu lộ cảm xúc – tâm lí của những nhân vật trữ tình. Trong trường hợp này thời gian có tính chất chủ quan:
Tìm em đã tám hôm nay,
Hôm qua là tám hôm nay là mười.
Có khi thời gian mang tính tượng trưng, ước lệ nhằm biểu đạt vái lí của lòng người cái lô-gic tâm trạng của nhân vật trữ tình:
Chiều chiều ra đứng bờ ao,
Trông cá cá lặn trông sao sao mờ.
b. Không gian nghệ thuật.
- Không gian trong ca dao mang tính hai mặt: vừa là không gian thực tại khách quan vừa là không gian chủ quan của nhân vật trữ tình.
- Không gian thực tại khách quan là những địa danh cụ thể:
- Gió đưa cành trúc la đà,
Tiếng chuông Trấn Vũ canh gà Thọ Xương.
Mịt mù khói toả cành sương,
Nhịp chày Yên Thái, mặt gương Tây Hồ.
- Chiều mây phủ Sơn Trà,
Lòng ta thương bạn nước mắt và lộn cơm.
- Đường vô xứ Huế quanh quanh,
Non xanh nước biếc như tranh hoạ đồ.
Yêu em anh cũng muốn vô,
Sợ truông nhà Hồ sợ phá Tam Giang.
- Không gian xã hội thường có mặt trong các câu hát than thân, tình nghĩa, nhất là hát giao duyên. Trong trường hợp này không gian xã hội chuyển hoá thành không gian tâm trạng:
- Qua đình ngả nón trông đình,
Đình bao nhiêu ngói thương mình bấy nhiêu.
- Cơm cha cơm mẹ đã từng,
Con đi làm mướn kiếm lưng cơm người.
Cơm người khổ lắm mẹ ơi !
Chả như cơm mẹ vừa ngồi vừa ăn.
Không gian xã hội nhiều khi mang tính tượng trưng thể hiện cảm xúc – tâm lí của nhân vật trữ tình:
- Chiều chiều có kẻ thất tình,
Tựa mai mai đổ tựa đình đình xiêu.
- Ước gì sông rộng một gang,
Bắc cầu giải yếm cho chàng sang chơi.
- Phần lớn không gian nghệ thuật có tính phiếm chỉ, không mang tính cá thể hoá như không gian trong thơ:
- Qua cầu ngả nón trông cầu,
Cầu bao nhiêu nhịp dạ em sầu bấy nhiêu.
- Cây đa cũ bến đò xưa,
Bộ hành có nghĩa nắng mưa cũng chờ.
2. Kết cấu của ca dao.
a. Lối đối đáp.
- Phần lớn ca dao có kết cấu đối đáp. Đây là những lời trò chuyện trực tiếp bằng thơ ca. Kết cấu này thường sử dụng trong lối hát đối đáp giao duyên.
- Mình về có nhớ ta chăng,
Ta như lạt buộc khăng khăng nhớ mình.
Ta về ta cũng nhớ mình,
Nhớ yếm mình mặc nhớ tình mình trao.
- Canh khuya anh mới hỏi nàng,
Cau xanh nhá lẫn trầu vàng xứng không ?
Trầu vàng nhá lẫn cau xanh,
Duyên em sánh với tình anh tuyệt vời.
Dấu hiệu hình thức phổ biến dễ thấy nhất của lối kết cấu đối đáp là việc sử dụng các cặp đại từ nhân xưng: mình – ta, chàng – thiếp, đó – đây,… hoặc những danh từ được dùng như những đại từ nhân xưng lâm thời: mận đào, trúc mai,…
- Trong ca dao cũng có kết cấu đối đáp một vế. Dễ nhận thấy nhất là những lời hát ru. Điều thú vị nhất dù không có “vế đáp” nhưng vẫn thấy thấp thoáng vế kia.
b. Lối kết cấu kể chuyện: tức là lối kết hợ tự sự với trữ tình, trong đó trữ tình là chính.
Ru con, con ngủ cho lành,
Để mẹ gánh nước rửa bành cho voi.
Muốn coi lên núi mà coi,
Coi bà Triệu tướng cưỡi voi đánh cồng
c. Lối kết cấu kết hợp trần thuật, miêu tả, đối đáp.
- Kết cấu pha lẫn giữa trần thuật với đối thoại: Hôm qua tát nước đầu đình.
- Kết cấu pha giữa miêu tả với đối đáp: Anh làm thợ mộc Thanh Hoa.
- Kết cấu pha trộn cả ba lối đối thoại, miêu tả và kể chuyện: Trèo lên cây bưởi hái hoa.
D. Kết luận.
1. Ca dao đẹp một vẻ đẹp giản dị mà tinh tế như tâm hồn người dân Việt.
2. "Ca dao là một thứ máu của Tổ quốc" (Xuân Diệu)
Hoàng Dục biên soạn
Thơ ca dân gian cũng là tiếng nói tâm hồn của người bình dân, có sức ngân vọng, thấm lan vào tâm hồn người đọc bao đời nay. Cho nên, ca dao “đó là tinh hoa của nền văn học dân tộc, là văn học cao nhất. Ai am hiểu về thơ, đọc ca dao mới thấy sợ. Quy luật của văn học, cái gì hay nhất thì được phổ cập nhất” (Nguyễn Đình Thi). Đọc ca dao vì thế chỉ có thể đem tấm lòng mà cảm mà hiểu cái tình ý bên trong câu thơ. Nếu chỉ dựa vào câu chữ, cái diễn tả, làm sao ta có thể hiểu được vẻ đẹp tâm hồn của một người đang say tình và đang hạnh phúc trong tình yêu qua câu ca dao:
Ra đường em mãi nhìn anh
Để chân em vấp đổ thành nhà vua.
Hay làm sao ta có thể rung cảm, đồng cảm cùng tâm trạng căng thẳng, lo âu đến chóng mặt của cô gái qua cái nhìn đắm say bền bỉ của trái tim:
Thương người, người chẳng biết cho,
Cầm bằng gánh nặng mà dò đường trơn.
Và là sao hiểu được tấc hồn xa xót vì hoàn cảnh éo le của những người phụ nữ:
- Sự đời nước mắt soi gương,
Càng yêu mến lắm càng thương nhớ nhiều.
- Bướm vàng đậu đọt mù u,
Lấy chồng càng sớm tiếng ru càng buồn.
Tóm lại, ca dao là thơ, xét về mặt thể loại, về chất thơ toả ra trong nó. Ca dao là thơ ca nói được cái hồn nhiên của tâm hồn qua cách diễn đạt tự nhiên của lời văn nghệ thuật; nhưng lại gợi lên được sự thẳm sâu của tâm hồn, một điệu tâm tình, một sắc thái cảm của nhân dân trước con người và cuộc đời, trước con người và trời đất.
B. Vẻ đẹp của nghệ thuật của ca dao:
I. Vẻ đẹp của thể thơ:
Mỗi dân tộc đều có một thể thơ truyền miệng phù hợp với khẩu ngữ, với qui luật hài hoà thanh điệu, ngữ âm của dân tộc mình. Thể thơ lục bát ra đời từ đấy.
1. Thể thơ
a. Lục bát: Lục bát là thể thơ cổ của văn học Việt Nam, cho nên rất gắn bó mật thiết với ca dao. Và chỉ với ca dao thể lục bát mới phát huy được những phẩm chất hình thức thể loại của nó. Thể thơ lục bát đẹp đến kì diệu, đúng như Nguyễn Đình Thi đã viết: “Câu dài câu ngắn khác nhau, vần trong câu xen kẽ vần cuối câu, tiếng lên tiếng xuống khiến cho nhạc điệu thay đổi được dễ dàng và nhịp mau thưa biến hoá dưới bút nhà thơ”.
b. Các thể lục bát.
- Lục bát chính thể: một dòng sáu tiếng, một dòng tám tiếng.
- Lục bát biến thể: gồm các dạng sau:
+ Thêm - bớt một số tiếng ở dòng lục.
Thấy nói mà chua,
Bồ hòn có ngọt thì vua đã dùng.
Nếu ở dòng sáu: “Trò đời thấy nói mà chua” thì câu ca dao mất đi tính hàm súc, ý nghĩa thơ không mạnh, giọng điệu mất đi sự đay nghiến, mỉa mai.
Chập chập, cheng cheng
Con gà trống thiến để riêng cho thầy.
Đơm xôi thì đơm cho đầy,
Chớ đơm vơi đĩa, thánh nhà thầy mất thiêng.
Có bản chép: Chập chập rồi lại cheng cheng. Câu ca dao giọng điệu có vẻ khề khà; còn dòng bốn tiếng có giọng diễu nhại nhịp, âm thanh tiếng chiêng của ông thầy cúng, vừa tái hiện không khí cúng bái giả tạo, vừa gợi tâm lí tham lam, ích kỉ của ông ta. Đọc câu ca dao ta nghê đâu đây như có tiếng cười khẩy, như thấy cái bỉu môi mai mỉa dài thườn thược.
Nhìn ra sông cái,
Nhìn ngoái thấy đình,
Hạc chầu kia còn đủ cặp, huống chi mình lẻ đôi !
Trong trường hợp này, dòng sáu mở rộng thêm hai tiếng, nhưng tạo thành hai dòng điệp song hành, gợi âm hưởng như một điệp khúc tâm trạng, những lớp sóng tình cảm. Chính nhờ sự mở rộng dòng sáu mà dòng tám cũng mở rộng thêm số tiếng khiến nhịp thơ khi mau, khi nhặt; ý thơ quyện lại chặt chẽ, dồn rút lại càng khơi sâu nỗi niềm cô đơn của chủ thể trữ tình trong thơ.
Một trường hợp khác, dòng sáu tám tiếng, khiến sắc thái ngữ điệu thay đổi:
Mình nói với ta: mình hãy còn son;
Ta đi qua ngõ thấy con mình bò.
Con mình những trấu cùng tro,
Ta đi gánh nước tắm cho con mình(1).
Vế sáu tiếng tách thành hai nhịp, nhưng mạch thơ không đứt đoạn mà liền hơi, liền mạch. Câu thơ là một lời trách yêu, trách thương, nhẹ nhàng. Trách mà vẫn cảm thông, chia sẻ. Vì thế mà giọng dịu dàng, nhạc thơ êm nhẹ. Trách nhưng thực tâm lại băn khoăn cho hoàn cảnh hiện tại của người bạn gái: nghèo, neo đơn, chẳng ai giúp đỡ nên đứa trẻ mới lê la một mình, nhếch nhác, lấm láp đến thế.
+ Thêm - bớt số tiếng ở dòng bát.
Lục bát biến thể trong ca dao nhiều khi dòng sáu giữ nguyên số tiếng chỉ mở rộng dòng tám; cùng có khi mở cả dòng sáu và dong tám.
Hai tay bưng dĩa bánh bò,
Chân đi khé né,
Tối trời sợ té,
Giấu cha giấu mẹ cho trò đi thi.
Câu ca dao có sự xen giặm vào câu tám tiêng những dòng thơ ngắn tạo nhịp điệu, dáng điệu bước đi và diễn tả được nét riêng tâm trạng của người trong cuộc. Câu ca dao có cả ngoại cảnh và nội tâm, nên ý tình kín đáo mà có sức đồng vọng thiết tha.
+ Có khi hai dòng thơ đều có sự mở rộng số tiếng.
Thương nhau tam tứ núi cũng trèo,
Ngũ lục sông cũng lội, tứ cửu tam thập lục đèo cũng qua.
kéo dài số tiếng ở hai vế với những Hán - Việt, thanh trắc, nên câu ca dao có nhịp điệu trúc trắc gợi sự trắc trở của không gian, nhưng lại thể hiện được tấm tình chung sáng tỏ theo thời gian.
+ Thể lục bát còn có nhiều dạng biến thể linh hoạt, uyển chuyển đầy sáng tạo của nhân dân. Nội dung tình cảm của thơ chi phối hình thức thơ. Do vậy, ở ca dao còn có sự kết hợp thể lục bát với lối nói lối (vãn bốn vãn năm), hoặc kết hợp lục bát với hai dòng ngũ ngôn, lục ngôn, thất ngôn. Đây là một hình thức nghệ thuật thể loại in đậm dấu ấn sáng tạo của dân tộc ta. Có người cho rằng đây là thể lục bát gián thất, nhưng hai câu thất ngôn có thể giữ nguyên số tiếng hoặc co lại, dù thế nào vẫn giữ cách hiệp vần như hai câu thất ngôn.
Có bài câu “song thất” chỉ còn năm tiếng:
Quế càng già càng tốt,
Mía càng đốt càng ngon,
Anh thương em đặng nghĩa vuông tròn,
Mấy sông cũng lội mấy hòn cũng leo.
Có bài câu “song thất” chỉ còn sáu tiếng:
Làm trai giữ mưu giữ kế,
Làm gái giữ thế giữ thần,
Miệng đời bén tựa gươm trần,
Thương anh không dám lại gần bên anh.
Và:
Tay lại bắt tay cho chặt,
Mặt lại nhìn mặt cho tường,
Hai ta cách trở đôi phương,
Nhắn nhe cùng bạn: giận hờn chi không ?
Có khi là hai dòng tám tiếng:
Nước chảy xuôi con cá buôi lội ngược
Nước chảy ngược con cá vược lội ngang
Thuyền em xuống bến Thuận An(1)
Thuyền anh lại trảy lên ngàn anh ơi !
Lại có khi hai câu bảy tiếng chuyển thành câu lục bát vần trắc:
Tò vò mà nuôi con nhện,
Đến khi nó lớn nó quện nhau đi.
Tò vò ngồi khóc tỉ ti,
Nhện ơi, nhện hỡi ! mày đi đường nào ?
Cũng có bài ca dao, có sự mở rộng các dòng thơ:
Nước xanh xanh chảy quanh cồn cát trắng,
Con chim phượng hoàng rày vắng tiếng kêu.
Hỡi người thương cho ta nhắn một đôi điều,
Dẫu rằng sớm quán chiều lều ta cũng thương.
Khi tình duyên đảo hướng đổi chiều, bài ca dao có những biến tấu phong phú:
Anh nói với em như rìu chém xuống đá,
Như rạ (rựa) chém xuống đất,
Như mật rót vào tai,
Bây giờ anh đã nghe ai,
Bỏ em giữa chốn non đoài, khổ chưa !
c. Thể thơ ca dao giàu âm thanh, nhịp điệu và tiết tấu:
Do thể thơ lắm biến hoá như đã nêu trên và cách khai thác nhạc tính của ngôn từ nghệ thuật nên ca dao rất giàu âm điệu.
- Âm thanh: Không một câu lục bát nào mà âm thanh không dồi dào. Có khi thanh điệu êm dịu:
Ai đi đường ấy xa xa
Để em ôm bóng trăng tà năm canh
Có khi réo rắc nặng nề:
Sóng sình sịch lưng chừng ngoài biển Bắc
Hạt mưa tình réo rắc chốn hàng hiên.
- Vần điệu: Vần điệu của ca dao là vần điệu có tính dân tộc, thể hiện phong thái của dân tộc ta: tự nhiên, hồn nhiên, thoải mái và phóng khoáng. Nguyễn Đình Thi: “Dùng hình ảnh ta có thể ví lối thơ Đường luật như một chiếc bình pha lê kết tinh trong suốt, nhưng không đủ sức lôi cuốn ca một dòng sông. Thơ lục bát trái lại, hợp với tiếng nước ta hơn nên có thể dùng được nguồn cảm hứng tràn lan, đó là thể thơ ca hát kể chuyện của đại chúng”.
+ Vần bằng: điệu ca dao lục bát luôn thanh thoát êm đềm như nước chảy xuôi:
Thuyền tình đã ghé tới nơi
Khách tình sao chẳng sang chơi thuyền tình.
+ Vần trắc: tạo sự cọ xát với nhau diễn tả những nỗi niềm khúc mắc, tấm tức, không bình thường của tâm hồn:
Trèo lên cây bưởi hái hoa
Bước xuống vườn cà hái nụ tầm xuân
Nụ tầm xuân nở ra xanh biếc
Em có chồng rồi anh tiếc lắm thay.
(…)
- Tiết tấu:
Nước xanh xanh/ chảy quanh/ cồn cát trắng,
Con chim phượng hoàng/ rày/ vắng tiếng kêu.
Hỡi người thương/ cho ta nhắn/ một đôi điều,
Dẫu rằng/ sớm quán/ chiều lều/ ta cũng thương.
II. Vẻ đẹp của sự kết hợp nhuần nhuỵ giữa tính thơ và ngữ điệu của ngôn ngữ đời sống.
1. Ngữ điệu đời sống trong ngôn ngữ ca dao.
a. Pie Gamara: "Thi ca là tinh hoa tối cao của ngôn ngữ là cái ánh ngời phi thường của nó, cái chỗ rách cảm động của nó".
Ý kiến của Pie Gamara đề cao vẻ đẹp của ngôn ngữ thơ và cũng rất đúng với ngôn ngữ ca dao. Ngôn ngữ ca dao luôn hội tụ những đặc điểm cơ bản: cô đọng, súc tích, giàu hình tượng, có sức biểu cảm lớn như ngôn ngữ thơ; lại rất giản dị và tự nhiên.
Mỗi từ trong ca dao có một vị trí nhất định không thể thay thế được. chính ở vị trí ấy từ mới giữ được sự vẹn nguyên của sự hồn nhiên, thanh thoát, đẹp một vẻ đẹp mộc mạc của đời sống; nhưng bóng bẫy, có sức rung động và truyền cảm thơ. Nói cách khác ngôn ngữ ca dao là ngôn ngữ đời thường gần với khẩu ngữ, nhưng đậm chất thơ bởi có sự chuốt lọc, biểu cảm.
Đến với ca dao, ta như nghe được tiếng nói giao tiếp thường ngày, một ngôn ngữ tự nhiên mà có sức ngân rung của tâm hồn người bình dân, có độ nén của suy tư về những vấn đề nhân sinh sâu sắc:
- Nạ dòng vớ được trai tơ,
Đêm nằm hí hửng như mơ được vàng.
- Những người mặc nạc đóm dày,
Mo nang trôi sấp biết ngày nào khôn.
- Nhún mình nhún cả cây đa,
Nhún mình thì ít nhún ta thì nhiều.
- Nhớ ai bổi hổi bồi hồi,
Như đứng đống lửa như ngồi đống than.
Ngay những câu ca dao phảng kháng, ít nhiều có màu sắc tự sự, ngôn ngữ vẫn rất tự nhiên, nhưng đấy là cả một bức tranh tâm trạng nhiều màu sắc:
Mẹ em tham thúng xôi rền,
Tham con lợn béo tham tiền Cảnh Hưng.
Em đã bảo mẹ rằng đừng,
Mẹ hấm mẹ hứ mẹ bưng ngay vào.
Bây giờ kẻ thấp người cao,
Như đôi đũa lệch so sao cho bằng !
Với những bài ca dao viết theo thể hứng, lấy một sự vật hiện tượng để làm đà cho mạch cảm xúc tuôn chảy, lời thơ không giống câu nói bình thường, nhưng vẫn gần với cách nói ví von, nói bắc cầu trong khẩu ngữ dân gian.
- Một cành tre năm bảy cành tre,
Đẹp duyên thì lấy chớ nghe họ hàng.
- Mưa lâm thâm ướt dầm lá hẹ,
Em thương một người mất mẹ còn cha.
Lấy ai lo liệu việc nhà…
Như vậy, ngôn ngữ ca dao là ngôn ngữ nồng đượm chất thơ, chất thơ bay lên từ đời sống, toát ra từ ngôn ngữ đời thường, nhưng có sức lay động sâu xa xúc cảm của người đọc.
b. M. Gorki từng nhận định về ngôn ngữ trong văn học dân gian: “Văn học dân gian là ngọn nguồn đầu tiên của nghệ thuật ngôn ngữ”, vì đó là thứ ngôn ngữ có cái đẹp duyên dáng và phong phú của tiếng nói dân tộc. Tố Hữu cũng đã viết: “Theo tôi nghĩ, thơ hay thường mộc mạc, chất phác, không cần trang sức”. Và Nguyễn Đình Thi cũng nói tương tự: “Về ngôn ngữ (trong thơ) thì tôi lại rất thích cách nói nào bình thường ít “mỡ” mà nhiều gân cốt, càng ít hình dung từ càng tốt”.
Như thế, một đặc trưng nữa của ngôn ngữ ca dao là sự giản dị, một ngôn ngữ “đạm” nhưng dồi dào độ “nồng” của chất thơ, của cảm xúc và của chất đời.
Anh thương em, chớ cho ai biết.
Em thương anh cũng đừng nói thiệt cho ai hay.
Nữa mai miệng thế lắt lay,
Cực anh chín rưỡi, cực em đây mười phần.
Chính từ kho tàng ngôn ngữ ca dao, các nhà thơ dân tộc đã sáng tạo những câu thơ thật giản dị mà sâu sắc ý tứ; thơ của họ tưởng chừng không có sự gọt giũa, họ dùng chữ như tự nhiên lấy chữ từ vốn từ vựng của dân nhân.
- Bây giờ mới rõ tăm hơi,
Máu ghen đâu có lạ đời nhà ghen !
- Đừng điều nguyệt nọ hoa kia,
Ngoài ra ai có tiếc gì với ai.
(Nguyễn Du – Truyện Kiều)
- Hoa càng khoe tốt, tốt thì rữa;
Nước chớ cho đầy, đầy ắt vơi.
- Phượng những tiếc cao diều hãy lượn;
Hoa thì hay héo, cỏ thường tươi.
(Nguyễn Trãi – Quốc âm thi tập)
Cờ đương dở cuộc không còn nước;
Bạc chửa thâu canh đã chạy làng.
(Nguyễn Khuyến – Tự trào)
2. Ngôn ngữ ca dao là một kho tàng mĩ từ pháp (biện pháp tu từ, mĩ từ pháp)
a. Trong đời sống, nhân dân ta khi trò chuyện, giao tiếp bằng ngôn ngữ, họ đã sử dụng nhiều biện pháp tu từ. Theo tiến trình lịch sử, những biện pháp tu từ đó ngày càng phong phú thêm, nhất là càng dồi dào hơn trong ngôn ngữ ca dao.
b. Những biện pháp tu từ trong ngôn ngữ ca dao.
- Biện pháp so sánh, ví von:
- Tiếc thay cái đọi bịt vàng,
Đem ra đong cám lỡ làng duyên em.
- Anh về đi ngủ kẻo khuya,
Xấu chuôm cá nỏ vào đìa thì thôi.
- Đu đủ tía, giềng giềng cũng tía,
Khoai lang giâm, ngọn mía cũng giâm.
Củi kia chen lẫn với trầm,
Em giữ sao cho khỏi… kẻo lầm bớ em !
- Biện pháp tu từ ẩn dụ:
- Buổi chợ đông, con cá hồng anh chê lạt,
Buổi chợ tan rồi, con tép bạc anh cũng phải mua!...
- Tiếc thay cái giếng nước trong,
Để cho bèo tấm bèo ong dạt vào.
- Biện pháp tu từ hoán dụ:
- Tóc ngang lưng vừa chừng em bới,
Để chi dài bối rối dạ anh.
- Biện pháp tu từ nhân hoá:
Khăn thương nhớ ai,
Khăn rơi xuống đất,
Khăn thương nhớ ai,
Khăn vắt lên vai.
(…)
- Biện pháp tu từ trong ca dao phong phú, không thể kể hết. Có thể kể thêm một vài biện pháp nữa như:
+ Chơi chữ:
- Bà già đi chợ cầu Đông,
Bói xem một quẻ lấy chồng lợi chăng ?
Thầy bói đoán que xem rằng:
Lợi thù có lợi nhưng răng không còn.
- Đã sinh ra kiếp con tằm,
Không vương tơ nữa cũng nằm trong tơ.
- Đầu năm ăn quả thanh yên,
Cuối năm ăn bưởi cho nên đèo bòng.
+ Điệp ngữ, điệp từ láy lại:
- Mẹ mình khéo đẻ mình ra,
Đẻ mình ngày bốn đẻ ta ngày rằm.
Mình đen, ta cũng ngăm ngăm,
Mình về, ta gửi lời thăm mẹ mình.
- Chữ tình là chữ chi chi,
Ai chi chi cũng chi chi với tình !
- Chưa chi chi cả mới tình,
Có chi chi, đã gọi mình bằng… chi !
+ Sử dụng đại từ xưng hô, sáng tạo từ nghĩa mới:
- Đêm tà thấp thoáng bóng trăng,
Ai đem người ngọc thung thăng chốn này.
- Người thương ta để trên cơi,
Nắp vàng đậy lại để nơi giường thờ…
- Ai đi đường ấy xa xa,
Để em ôm bóng trăng tà năm canh.
- Chàng ơi phụ thiếp làm chi,
Thiếp là cơm nguội để khi đói lòng.
- Mình về để áo lại đây,
Để đêm đêm em đắp kẻo gió tây lạnh lùng.
- Đường xa ơi hỡi đường xa,
Đem sầu đến bỏ cho ta mà về.
- Con cuốc kêu réo rắt trên nguồn,
Gà rừng tao tác gọi con tha mồi.
Lạnh lùng thay láng giềng ơi,
Láng giềng lạnh ít sao tôi lạnh nhiều.
- Lúng ơi là liếng ơi,
Miệng cười lúng liếng có đôi đồng tiền.
- Búp hoa sen lai láng giữa hồ,
Anh đưa tay muốn bẻ sợ trong chùa có sư.
- Chính chuyên anh cũng được nhờ,
Lẳng lơ nào biết cõi bờ là đâu !
3. Tóm lại, ngôn ngữ ca dao là ngôn ngữ thơ nhưng là ngôn ngữ giản dị, gần với khẩu ngữ, có tính chất hồn nhiên, tự nhiên. Ngôn ngữ ca dao đẹp một vẻ đẹp như ý thơ của Raxun Gamzatôp:
Những chiếc bình đẹp nhất
Nặn từ đất bình thường.
Những câu thơ đẹp nhất,
Từ những chữ bình thường.
(Đaghetxtan của tôi)
III. Vẻ đẹp của hình ảnh trong ca dao.
1. Văn học phản ánh và biểu hiện đời sống, hiện thực khách quan bằng hình tượng. Ca dao là đời sống tâm hồn của con người, của dân tộc Việt bao đời nay thông qua hình tượng nghệ thuật độc đáo, đa dạng và phong phú về phương thức xây dựng và nội dung tư tưởng, tình cảm của nó. Hình tượng bao gồm hệ thống hình ảnh liên kết với nhau bằng mạch liên tưởng, cảm xúc tâm tình. Hình ảnh trong ca dao được xây dựng từ ngôn ngữ có tính ví von của người bình dân nhưng bảo đảm được tính cụ thể - cảm tính của văn học nghệ thuật.
2. Đến với kho tàng câu hát trữ tình dân gian, người đọc có thể cảm nhận sâu sắc câu nói về phép làm thơ của Lê Quý Đôn: “nói kị thẳng, ý kị rộng, mạch kị lộ”. Được như vậy là nhờ cách nói hình ảnh giản dị mà nén nhiều lớp nghĩa của ca dao. Thử đọc câu ca dao:
- Yêu nhau chẳng đặng thì thôi,
Cầm bằng nước đổ lỗ vôi, sá gì !
hình tượng đối tượng trữ tình kẻ phụ tình trong thơ hiện lên thật cụ thể sống động qua hình ảnh “nước đổ lỗ vôi”, qua từ ngữ “sá gì”.
- Hình ảnh ca dao dân dã, thấm đẫm màu sắc dân tộc. Ta có thể cảm nhận điều đó khi sống với ca dao:
- Tiếc thay hạt gạo tám xoan,
Nấu nồi đồng điếu lại chan nước cà.
- Tiếc thay hạt gạo trắng ngần,
Đã vo nước đục lại vần than rơm.
- Lọng vàng che nải chuối xanh,
Tiếc chim loan phượng đậu ngành tre khô.
- Hình ảnh ca dao quả là có nhiều biến hoá linh hoạt, cũng là hạt gạo ấy thôi mà khi thì “tám xoan”, khi thì “trắng ngần”, khi nấu, khi vo… đã diễn tả trọn vẹn nỗi buồn tiếc, xót xa của người con gái lệch duyên trong tình yêu và hôn nhân gia đình.
- Các nhà thơ trong văn học trung đại Việt Nam khắc hoạ chân dung của nhân vật nữ của mình bằng hình ảnh đắm say, bằng bút pháp lãng mạn, lí tưởng hoá; tạo nên hình tượng người phụ nữ đẹp tận thiện tận mĩ:
Chìm đáy nước cá lờ đờ lặn,
Lửng da trời, nhạn ngẩn ngơ sa.
Hương trời đắm nguyệt say hoa,
Tây Thi mất vía, Hằng Nga giật mình.
(Nguyễn Gia Thiều – Cung oán ngâm khúc)
Hay Nguyễn Du khi tả nàng Vân, nàng Kiều đẹp đến độ “mây thua”, “tuyết nhường”, “hoa ghen”, “liễu hờn”.
Với các tác giả dân gian, chân dung của những phụ nữ đồng áng được vẽ bằng chất liệu gần gũi, quanh quất trong cuộc sống của họ:
- Những người thắt đáy lưng ong,
Vừa khéo chiều chồng vừa khéo nuôi con.
- Những người con mắt lá răm,
Lông mày lá liễu thương năm nhớ mười.
- Cổ tay em trắng như ngà,
Con mắt em liếc như là dao cau.
Miệng cười như thể hoa ngâu,
Cái khăn đội đầu như thể hoa sen…
- Một thương tóc bỏ đuôi gà,
Hai thương ăn nói mặn mà có duyên.
Ba thương má lúm đồng tiền,
Bốn thương răng nhánh hạt huyền kém thua.
Chân dung của các cô thôn nữ trong ca dao đẹp không đến nỗi gây vạ cho người, làm nghiêng thành đổ nước; họ đẹp mặn mà, có cái duyên ngầm tạo được mĩ cảm trong lòng người đứng ngắm.
- Trong ca dao, có những mô-tip hình ảnh lặp lại thường gặp như: con cò, cái bống, trầu cau, trúc mai, bến thuyền,… có những hình ảnh không gian: đình, ngõ sau, bến, thuyền,.. có những hình thời gian: đêm đêm, chiều chiều, trăng sáng, trời mưa,…
- Để xây dựng hình ảnh ca dao có hai thủ pháp:
+ Thủ pháp so sánh
* So sánh trực tiếp:
Thân em như lá đài bi,
Ngày thì dãi nắng đêm thì dầm sương.
* Ẩn dụ (so sánh ngầm)
Mấy khi rồng gặp mây đây,
Để rồng than thở với mây đôi lời,
Nữa mai rồng ngược mây xuôi,
Biết bao giờ lại nối lời rồng mây.
* So sánh phức hợp nhiều tầng bậc.
- Tiếc thay quả hồng ngâm mà đem cho chuột vọc
Tiếc thay người ngọc mà để cho ngâu vầy.
- Ngày nào anh nói anh thương,
Như trầm mà để trong rương chắc rồi.
Bây giờ khoá rớt chìa rơi,
Rương long nắp vỡ, bay hơi mùi trầm.
+ Thủ pháp miêu tả:
- Đêm hỡi đêm trông cho mau sáng,
Ngày hỡi ngày tắt quáng cho mau
Để em ra khỏi cửa nhà giàu,
Kẻo nay cơm thừa mai canh cặn tối nằm sau xó lều.
- Thương thay thân phận con rùa,
Lên đình đội hạc xuống chùa đội bia
Thương thay lũ kiến li ti
Kiến ăn được mấy phải đi tìm mồi.
3. Nhìn chung, việc xây dựng hình ảnh trong ca dao truyền thống vẫn là được chọn lựa khá tinh tế, chặt chẽ theo những nguyên tắc về thẩm mĩ, về tâm lí học và theo yêu cầu biểu cảm hàm súc của thơ ca trữ tình nói chung.
C. Thi pháp của ca dao:
1. Thời gian và không gian nghệ thuật.
a. Thời gian nghệ thuật:
- Do sáng tác, diễn xướng, thưởng thức diễn ra trong một khoảnh khắc đương thời đang tiếp diễn nên thời gian của người sáng tác hoà lẫn với thời gian người diễn xướng nên thời gian nghệ thuật trong ca dao là thời gian hiện tại.
- Để diễn tả thời gian hiện tại, dân gian đã sử dụng hàng loạt cụm từ chỉ thời gian: “bây giờ”, “hôm nay”, “chiều chiều”, “đêm đêm”, “hôm qua”, “đêm qua”, “sáng ngày”, “khi xưa”,… Những cụm từ thời gian ấy nói lên thời gian nghệ thuật trong ca dao vừa là thời gian thực tại khách quan, vừa thời gian của sự tưởng tượng, hư cấu mang tính chủ quan của nhân vật trữ tình.
- Khi thời gian thuộc đối tượng phản ánh thì đó là thời gian thực tại kéo dài:
Tháng chạp là tháng trồng khoai,
Tháng giêng trồng đậu, tháng hai trồng cà…
nhưng có khi thời gian dồn dập không là đơn vị tháng nữa mà là ngày:
Một ngày hai bận trèo non,
Lấy gì mà đẹp mà giòn hỡi anh.
thậm chí đơn vị thời gian con ngắn hơn cả ngày:
Thân anh khó nhọc trăm phần,
Sớm đi ruộng lúa tối nằm ruộng dưa.
Vội đi quên cả cơm trưa,
Vội về quên cả trời mưa ướt đầu.
- Thời gian nhiều khi là một yếu tố góp phần tạo nên hoàn cảnh, một phương tiện nghệ thuật để biểu lộ cảm xúc – tâm lí của những nhân vật trữ tình. Trong trường hợp này thời gian có tính chất chủ quan:
Tìm em đã tám hôm nay,
Hôm qua là tám hôm nay là mười.
Có khi thời gian mang tính tượng trưng, ước lệ nhằm biểu đạt vái lí của lòng người cái lô-gic tâm trạng của nhân vật trữ tình:
Chiều chiều ra đứng bờ ao,
Trông cá cá lặn trông sao sao mờ.
b. Không gian nghệ thuật.
- Không gian trong ca dao mang tính hai mặt: vừa là không gian thực tại khách quan vừa là không gian chủ quan của nhân vật trữ tình.
- Không gian thực tại khách quan là những địa danh cụ thể:
- Gió đưa cành trúc la đà,
Tiếng chuông Trấn Vũ canh gà Thọ Xương.
Mịt mù khói toả cành sương,
Nhịp chày Yên Thái, mặt gương Tây Hồ.
- Chiều mây phủ Sơn Trà,
Lòng ta thương bạn nước mắt và lộn cơm.
- Đường vô xứ Huế quanh quanh,
Non xanh nước biếc như tranh hoạ đồ.
Yêu em anh cũng muốn vô,
Sợ truông nhà Hồ sợ phá Tam Giang.
- Không gian xã hội thường có mặt trong các câu hát than thân, tình nghĩa, nhất là hát giao duyên. Trong trường hợp này không gian xã hội chuyển hoá thành không gian tâm trạng:
- Qua đình ngả nón trông đình,
Đình bao nhiêu ngói thương mình bấy nhiêu.
- Cơm cha cơm mẹ đã từng,
Con đi làm mướn kiếm lưng cơm người.
Cơm người khổ lắm mẹ ơi !
Chả như cơm mẹ vừa ngồi vừa ăn.
Không gian xã hội nhiều khi mang tính tượng trưng thể hiện cảm xúc – tâm lí của nhân vật trữ tình:
- Chiều chiều có kẻ thất tình,
Tựa mai mai đổ tựa đình đình xiêu.
- Ước gì sông rộng một gang,
Bắc cầu giải yếm cho chàng sang chơi.
- Phần lớn không gian nghệ thuật có tính phiếm chỉ, không mang tính cá thể hoá như không gian trong thơ:
- Qua cầu ngả nón trông cầu,
Cầu bao nhiêu nhịp dạ em sầu bấy nhiêu.
- Cây đa cũ bến đò xưa,
Bộ hành có nghĩa nắng mưa cũng chờ.
2. Kết cấu của ca dao.
a. Lối đối đáp.
- Phần lớn ca dao có kết cấu đối đáp. Đây là những lời trò chuyện trực tiếp bằng thơ ca. Kết cấu này thường sử dụng trong lối hát đối đáp giao duyên.
- Mình về có nhớ ta chăng,
Ta như lạt buộc khăng khăng nhớ mình.
Ta về ta cũng nhớ mình,
Nhớ yếm mình mặc nhớ tình mình trao.
- Canh khuya anh mới hỏi nàng,
Cau xanh nhá lẫn trầu vàng xứng không ?
Trầu vàng nhá lẫn cau xanh,
Duyên em sánh với tình anh tuyệt vời.
Dấu hiệu hình thức phổ biến dễ thấy nhất của lối kết cấu đối đáp là việc sử dụng các cặp đại từ nhân xưng: mình – ta, chàng – thiếp, đó – đây,… hoặc những danh từ được dùng như những đại từ nhân xưng lâm thời: mận đào, trúc mai,…
- Trong ca dao cũng có kết cấu đối đáp một vế. Dễ nhận thấy nhất là những lời hát ru. Điều thú vị nhất dù không có “vế đáp” nhưng vẫn thấy thấp thoáng vế kia.
b. Lối kết cấu kể chuyện: tức là lối kết hợ tự sự với trữ tình, trong đó trữ tình là chính.
Ru con, con ngủ cho lành,
Để mẹ gánh nước rửa bành cho voi.
Muốn coi lên núi mà coi,
Coi bà Triệu tướng cưỡi voi đánh cồng
c. Lối kết cấu kết hợp trần thuật, miêu tả, đối đáp.
- Kết cấu pha lẫn giữa trần thuật với đối thoại: Hôm qua tát nước đầu đình.
- Kết cấu pha giữa miêu tả với đối đáp: Anh làm thợ mộc Thanh Hoa.
- Kết cấu pha trộn cả ba lối đối thoại, miêu tả và kể chuyện: Trèo lên cây bưởi hái hoa.
D. Kết luận.
1. Ca dao đẹp một vẻ đẹp giản dị mà tinh tế như tâm hồn người dân Việt.
2. "Ca dao là một thứ máu của Tổ quốc" (Xuân Diệu)
Hoàng Dục biên soạn
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét