Ngày xưa, mỗi lần nói đến làng quê của tôi, tôi thường kể bằng giọng khoe khoan rất hồn nhiên, không hề biết xấu hổ là gì. Nào là làng tôi có một cấu trúc đường sá, xóm, nhà cửa hết sức đăng đối, hài hòa; nào là quê tôi là một làng nghề kim hoàn nổi tiếng; nào là không có làng quê nào có Văn Thánh, thờ Đức Khổng Tử và bảy mươi hai học trò của ngài như quê tôi; nào là đầu làng, giáp giới Vĩnh Xương, có miếu thờ Huyền Trân công chúa,...
Và khi bạn bè nghe tôi kể về làng mình, họ thường cho tôi chiếm diễn đàn một cách tự nhiên, họ lắng nghe lời tôi nói, họ chăm chú nhìn những cử chỉ khoa chân múa tay, chớp mắt, mỉm cười của tôi. Mặc dù bạn bè dành thời gian, tình cảm cho tôi nhiều như thế nhưng tôi vẫn cảm giác chưa thỏa mãn, vẫn chưa nói hết những cái đáng ca ngợi và tự hào cả làng tôi. Những lúc tôi “lên đồng” say chuyện ấy, các bạn tôi vì thương và hiểu tôi, nên chẳng ai chấp trách gì. Và nhất là với một số bạn đã về thăm quê tôi đều thấy tôi nói khoa trương không nhiều nên họ thông cảm với tôi, họ đồng tình với những gì tôi kể, tôi nói, thậm chí tôi hát nữa... về quê hương tôi: Làng Kế Môn.
Qua thời gian, tình cảm của tôi dành cho nơi chôn nhau cắt rốn của mình vẫn vậy, nhưng cách nói, cách kể về làng do có sự trải nghiệm nên sâu đằm hơn. Chẳng hạn như lần này, cả hai vợ chồng tôi về chạp mộ, nhằm ngày mồng 8 tháng 9 năm Tân Mão, tức là ngày 5 tháng 10 năm 2011, quê tôi có biết bao nhiêu là cái mới, tôi không ba hoa với bạn bè nữa mà chỉ lặng im chiêm nghiệm.
Bao năm qua, mỗi lần về quê, tôi đã thấy làng tôi thay đổi. Tôi đã thấy những nét văn hóa phố thị, cái tôi thị dân nửa mùa đang len lách vào mọi ngỏ ngách của chốn quê. Buổi sáng người ta không nấu ăn nữa mà trong gia đình ai thích gì thì cứ tìm hàng quán mà ăn. Thanh niên thì tinh mơ đã ngồi bên li cà phê phin thả những lọn khói thuốc bay mơ màng trong gió. Chiều làm về, chưa cơm nước gì, lại ơi ới gọi nhau qua điện thoại bàn, sau nâng lên qua điện thoại di động, gặp nhau lai rai vài li. Thường lai rai vài li cũng kéo dài đến 22 giờ đêm, còn nếu chưa đến thời gian ấy thì không chịu về, họ còn kéo nhau vào quán karaoke nghêu ngao, bốc rời, vui cho trọn đêm nay. Làng tôi không còn sự yên tĩnh của một vùng quê thuần nông nữa. Cả ngày tiếng xe gầm rú, đêm về xóm trên xóm dưới ra rả tiếng hát karaoke…Và tôi cũng đã thấy cái văn hóa lăng mộ, nhà thờ tộc, nhà thờ chi,… ngày càng khoe sắc khoe dáng ở không gian tầng cao của làng. Người làng tha hương nay làm ăn khá giả, hoặc không thì vận động các chú các o trong chi, về làng xây căn nhà nơi vườn cũ để thờ tự, gọi là nhà thờ chi. Hoặc nhớ đến tổ tiên, cha mẹ, những người sống xa quê ấy bỏ tiền ra xây lăng mộ để vừa báo hiếu vừa tự làm nở mày nở mặt chính mình. Tôi cũng đã chứng kiến nhiều lăng mộ rất “hoành tráng”, nghe đâu xây dựng tốn kém cả tỉ đồng. Không biết những cái lăng này có sánh được với thành phố ma của làng An Bằng, Phú Vang, Thừa Thiên Huế không, nhưng tôi quả quyết là chúng to nhất làng, danh giá nhất làng tôi.
Rồi năm nay tôi về, làng lại mọc ra nhiều cái mới. Trước đấy người ta đổ đất lấp những thửa ruộng nằm ở khu dân cư, gần đường ngang (đường sát khu dân cư), cho người làng đấu để làm nhà, thì nay người ta cho lấp nhiều sào ruộng nằm giữa đường ngang và quốc lộ 49 để xây “siêu thị”? Tôi không biết bao giờ “siêu thị” mọc lên, nhưng nhìn cả một vùng đất cát trắng phủ lấp ruộng vườn mà tự nhủ: cứ đà này ruộng để canh tác chả còn được bao nhiêu? Không biết cái “siêu thị” đó bao giờ thì mở cửa để cho các mẹ các chị không còn vất vả lặn lội xuống tận chợ Đại Lộc bán mua nữa? Không biết cả làng mà trường mẫu giáo cứ teo dần, teo dần, lúc đầu nhiều lớp, nay chỉ còn chưa đầy một lớp vì thanh niên bỏ làng đi làm ăn xa cả, liệu cái “siêu thị” ấy có mỉm cười vui vẻ mãi không?
Điều đáng nói hơn, năm nay khi xuôi ngược đường quê, tôi đã chứng kiến nhiều ngôi nhà có “phong cách” mọc lên. Ở xóm khe, người ta mới dựng một ngôi nhà rường cổ, lọt thỏm giữa một không gian bê tông. Ở xóm Dừa, lại mọc lên một ngôi nhà bốn tầng ngất ngưởng, cửa nẻo then cài im ỉm như không thèm nhìn mặt cái quê mùa của những ngôi nhà chung quanh. Ở xóm ông cậu tôi, ngay sát đường ngang tọa lạc một biệt thự rất đẹp, hài hòa với cảnh quang làng quê. Đây là một ngôi nhà mà tôi thích và cũng đã được chủ nhân ưu ái mời tham quan. Tôi vội chụp vài tấm ảnh để ghi lại cái mới của làng tôi.
Mặt trước - chính diện của "Duy Xuân viên", hướng ra đường ngang
Mặt bên phải của "Duy Xuân viên", nằm sát đường lên xóm
Và có một cái mới nữa mà tôi không thể không khoe, đó là đình làng tôi đã được trùng tu. Dẫu chưa hoàn tất nhưng cũng đã ra hình ra dáng lắm. Nghe đâu còn mở rộng, xây dựng hồ sen, công viên cho trẻ em nữa. Nếu được như vậy thì quý biết bao nhiêu. Tôi nhìn ngôi đình mới trùng tu mà lòng thầm cảm ơn những vị chức sắc, những Bác Trưởng của mười sáu tộc họ trong làng, cám ơn con dân làng đã đóng góp để có được một đình làng bề thế như thế này.
Đình làng Kế Môn
Chánh điện của đình làng Kế Môn
Và tôi thầm mong, rồi đây những công trình văn hóa của làng như nghè đôi, như Văn Thánh,… tạo nên truyền thống của quê tôi, sẽ dần được trùng tu cho xứng tầm với danh hiệu của một làng văn hóa.
Chuyện quê tôi là thế đấy. Nếu là quê bạn, bạn có khoe không? Riêng tôi, tôi không kềm chế được niềm vui mà phải phô phang cho đã lòng thương mến về những đổi mới ở quê hương mình. Nhưng bạn ơi! Chuyện quê tôi dài lắm. Làm sao tôi kể hết trong một vài trang giấy. Vả lại giữa thời buổi kinh tế thị trường này, bạn còn ngược xuôi kiếm sống, hơi đâu mà ngồi nghe tôi khoe… Có lẽ tôi không thể tiếp tục đánh cắp thời gian và lợi dung tấm lòng của bạn nữa. Bạn có thông cảm cho tôi không, hỡi bạn của tôi!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét