1.
Lê Quý Đôn một hiền tài nước Việt, học vấn thâm hậu, tri thức uyên áo.
Không những thế, ông vừa là người dày công sưu tầm, sao lục biên soạn
thơ văn nước nhà. Và cũng là người thẩm bình thơ văn sâu sắc.
Đọc
"Kiến văn tiểu lục", quyển bốn, mục "Thiên chương" của Lê Quế Đường,
chúng ta dễ dàng nhận ra điều đó. Nghiêng mình trước ông là cái lễ của
người đời sau, tìm hiểu những lời thẩm bình thơ văn của ông lại là lễ
của người học văn chúng ta. Vì vậy, người viết bài này không ước ao gì
hơn là học cách "xem thơ nên dùng toàn sức mắt" (Hối Am) của ông. Đồng
thời, qua lời bình mà hiểu thêm tình yêu văn chương, quý trọng học
thuật nước nhà của ông; và cũng cảm nhận sâu sắc tấc lòng yêu nước, tự
hào dân tộc của nhà bác học này. Nghĩ như vậy, nên người viết chủ yếu
sưu tầm những lời bình của ông về văn thơ các đời Lý, Trần, Lê và thơ
phú của các tác giả Việt Nam.
2.
Khi sưu tầm các thể văn như phú, biểu, bia kí,... Lê Quý Đôn đã có một
cái nhìn vừa khái quát vừa cụ thể. Ông đã phát hiện được phong cách thời
đại bên cạnh phong cách cá nhân trong từng triều đại đó.
Trong
quá trình cóp nhặt một vài chục bài văn trong tập "Kim thạch di văn",
ông đã đưa ra một một lời đánh giá rất chính xác, giúp ta hiểu được
phong cách của văn thời Lý, thời Trần. Ông viết thật súc tích mà xâu
chuỗi được cái đẹp, đặc điểm phong cách trong văn hai triều đại ấy. "Văn
thời Lý phần nhiều dùng lối biền ngẫu, lời văn hoa và tươi đẹp, còn
giống như thể văn đời Đường. Đến thời Trần thì văn chỉnh tề lưu lóat, đã
giống khí phẩm người thời Tống". Ở một chỗ khác ông cũng viết: "Văn phú triều Trần rất kì dị hùng vĩ, lại lưu lóat tươi đẹp, hơi giống văn đời Tống. Thời Trần dùng nhiều bài biểu lối văn chương, đó là theo phép đời Đường Tống".
Lời thẩm bình của ông dùng thủ pháp so sánh, nhưng không đề cao văn
người mà hạ thấp văn mình. Trái lại, so sánh liên tưởng là để khẳng định
giá trị thẩm mĩ của văn chương Việt Nam đời Lý - Trần. Điểu đáng chú ý ở
đây, ông đã tinh tế phát hiện mỗi thời có một thể văn riêng, có một nội
dung và hình thức riêng. Thể văn đời Lý là thể phú đời Đường, lời văn
đẹp, giàu sức sống. Phải chăng bởi tinh thần phật giáo đã mềm hoá văn
chương? Văn hoá phật giáo đã được văn hoá Việt Nam có tính chất dân chủ
tiếp biến, cộng hưởng tạo nên sức sống bất diệt cho văn chương? Sáng tác
đời Trần vừa bằng thể phú, thể biểu, và bia kí; cấu trúc "chỉnh tề, lưu
loát", giọng văn, khí văn "kì dị hùng vĩ" thể hiện trọn vẹn không khí
thời đại: "Xã tắc lưỡng hồi lao thạch mã", và ý vị thiền học của phái
Trúc Lâm?
Với
sáng tác của từng cá thể, ông khen chê đúng mực. Ngòi bút phê bình của
ông vừa khách quan, vừa giữ được đạo lý của người phê bình. Tiếp cận bài
phú "Bạch vân chiếu xuân hải" ghi ở tập Uyên giám của Khương Công Phụ - một người Việt Nam đỗ đạt và làm quan triều nhà Đường; ông hình như rất kiệm lời: "cũng khá tươi đẹp".
Lời bình gọn, có phần nghiêng về trường phái phê bình "chủ nghĩa ấn
tượng, nghệ thuật như là thủ pháp"; nhưng vẫn tinh tế và chuẩn mực. Cảm
thụ bài phú "Lam Sơn lương thủy" của vua Thánh Tông, Lê Quý Đôn không hề
ngần ngại khen chê chữ nghĩa của bậc đế vương. Ông cho bài phú này "dùng chữ tuy có hơi kém kì đặc, song cốt cách hào hoa tuấn dật, đầy rẫy vẻ tươi sáng! Cũng chẳng kém gì cổ nhân". Văn chương là nghệ thuật ngôn từ, vậy mà vua Thánh Tôn dùng chữ chẳng có gì mới lạ, độc đáo; chỉ có phong cốt "hào hoa tuấn dật".
Nếu quan niệm tác phẩm văn học chân chính, độc đáo là có sự hài hoà
nhuần nhị giữa nội dung và hình thức, thì bài phú của vua Thánh Tôn đã
không đạt được sự hài hoà đó. Hạ bút ghi ba chữ "kém kì đặc",
Lê Quý Đôn đánh giá "Lam Sơn lương thủy" không mạnh về ngôn từ mà chỉ
mạnh về tình điệu thẩm mĩ, về văn phong. Xét cho cùng bài phú này chưa
bộc lộ đầy đủ và trọn vẹn phong cách nghệ thuật của người sáng tác. Khi
thưởng thức "Bài kí đề tháp Linh Tế" trên núi Dục Thúy của Thiếu phó
Trương Hán Siêu, ông thực sự bị hút vào bài phú nhất là đọan cuối:
"Đến
như đối cảnh: Non biếc trước sóng xanh, sông trong lồng bóng tháp! Mỗi
khi chiều tà, thả con thuyền nhỏ, lênh đênh mặt nước, bỏ mui thuyền ra,
ngạo nghễ xa trông, rồi gõ cạp thuyền mà hát bài ca thương lương (1) để nhớ lại chút thanh phong của Tử Lăng (2) và tìm hỏi thú chơi Ngũ hồ của Đào Chu (3) . Phong cảnh này, hoài bão ấy, chỉ riêng ta với non sông này biết".
Lê Quý Đôn bình đầy hứng cảm: "văn tứ cảm khái thanh tao, tình huống khôn hàn!".
Lời bình đã tóm thâu được điệu hồn, cốt cách của người ẩn sĩ, hoà mình
vào thiên nhiên rũ bỏ sự hệ lụy của cõi bụi bặm. Nhưng lòng muốn cởi mà
tình lại buộc nên "Phong cảnh này, hoài bão ấy, chỉ riêng ta với non sông này biết".
3.
Với thể loại thơ trữ tình điệu ngâm, Lê Quý Đôn đã chứng tỏ kiến văn
uyên bác và tấm lòng trải mở theo không gian và thời gian đất nước, dân
tộc của ông.
Bàn về lối đối trong thơ, Lê Quý Đôn cho “làm văn tuy cốt học lối cổ, nhưng cũng cần phải hợp thờ”. Ông rất thích hai câu thơ của Vương Bột trong “Đằng vương các tự” :
Lạc hà dữ cô lộ tề phi
Thu thủy cộng trường thiên nhất sắc
dịch thơ:
Ráng chiều vịt độc bay ngang,
Da trời, sắc nước một làn xanh xanh.
Ông so với hai câu thơ của Thẩm Ước và Chu Nguyên Thiên đời trước (1) để thấy thơ Vương Bột "rất là cao tuyệt", có "tinh thần hơn nhiều".
Theo ông, Vương Bột học người xưa, nhưng đã sáng tạo theo tinh thần của
thời đại ông, thể hiện cái nhìn, tư tưởng nghệ thuật của riêng ông.
Vương Bột, "khi đọc sách thì không quên người xưa, còn khi cầm bút sáng
tạo đã quên người xưa". Tài hoa của họ vương là thóat ra khỏi cái bóng
của người trước để bay lên theo đường thơ của mình. Lời bình của Lê Quý
Đôn vừa giúp ta cảm nhận được vẻ đẹp của thơ Vương Bột vừa cho ta một bài học sáng tác bổ ích.
Nghiên cứu thơ đời Trần, ông xúc động khi
đọc thơ của Pham Sư Mạnh. Ông đã công phu ghi lại hai bài: hoạ thơ và
làm thơ tặng sứ thần Trung Quốc của thi sĩ họ Phạm. Chúng ta cùng Lê Quý
Đôn đọc bài thơ Phạm Sư Mạnh sáng tác tiễn Sứ Trung Quốc về nước:
Vạn lí đông hành lưỡng Sứ quân,
Nhất bôi biệt tửu ý ân cần.
Mã hàm Dũ lĩnh mai hoa tuyết,
Thuyền quá Ngô giang nhạn ảnh vân.
Sóc mịch binh ao kim tấu tiếp,
Nam triều nhân vật tổng năng văn.
Qui lai mật vật bồi chiên hạ,
Tiến giảng Trùng Hoa dữ Phóng huân.
dịch thơ:
Sang Đông hai vị sứ thần,
Tiễn đưa một chén ân cần xiết bao,
Ngựa dong mai tuyết non cao,
Mây lồng bóng nhạn, thuyền vào Ngô giang.
Tin mừng cõi Bắc giặc tan,
Nam triều nhân vật cũng làng thơ văn.
Khi về dưới bệ chầu dâng,
Trùng hoa tiến trước tiếp phần phóng huân (1)
Lê Quý Đôn cho bài thơ này "tự sự trác tuyệt, lời văn hào dật! Đủ làm hùng mạnh thế nước".
Phạm Sư Mạnh là người tài trong làng thơ Việt. Nếu không như thế, Lê
Quý Đôn chẳng hạ bút khen cả cảnh, tình lẫn sự hài hòa trong tác phẩm.
Thơ họ Mạnh có cả một cái cây nghệ thuật theo quan niệm của Bạch Cư Dị.
Nhưng điều đáng nói, hồn thơ là hồn đất nước, khí thơ là tinh thần hào
sáng của hào khí Đông - A.
Bàn về thơ trong "Tăng Chuyết tập" của Mai Doãn Thường do Thượng thư Lê Hữu Kiêu đề tựa, Lê Quý Đôn viết: "ý
chí linh động già dặn, cách vận phong nhã đẹp tươi! Đặt lời sắc bén và
mới; dùng chữ tinh vi và sáng. Nói cao mà không phạm vào lỗi phiếm; nói
gần mà không mắc lỗi thấp. Bởi vì nhạc bộ đủ cả trong mình". Ông ghi những "vài lời thiển kiến nơi đầu thiên" để khuyên họ Mai không ngừng sáng tác để: "Tứ thơ phảng phất như mây như gió; lời thơ cao rộng như núi như non".
Rất tiếc, Lê Quý Đôn không chép một vài bài để chúng ta cùng thưởng
thức cái độc đáo của thơ. Nhưng dù không được đọc, chúng ta cũng có thể
thấy ông trân trọng đến nhường nào những vần thơ của ông Doãn Thường.
Không trân trọng. Lê Quý Đôn không viết lời bình dài như thế. Không rung
động, ông chẳng thể để cảm xúc tràn thấm vào câu chữ lời bình như vậy.
Bình "Bài kí động Thanh hư" của Nguyễn Phi Khanh, Lê Quý Đôn cảm nhận "lời lẽ tranh vanh!".
Nội dung thơ chạm đến quy luật của trời đất và chữ thời đối với người
hào kiệt trong quan niệm của người xưa. Thơ như phong kín hoài bão của
người trí thức phong kiến sống theo lẽ "xuất xử" của Khổng Mạnh. Cho
nên, Lê Quý Đôn đọc đến câu:
Kiền khôn chi quang tễ nan trường,
Hào kiệt chi kinh luân hữu hội.
dịch thơ:
Sự mưa tạnh của trời đất không thường,
Tài kinh luân của hào kiệt có hội.
đã không kìm nổi tình cảm nên "càng khiến người vỗ tay tán thưởng!"
Ông khen bài thơ khắc vào đá ở núi Kính Chủ của Tử Nhan bá Lê Quyền thời Lê "mới mẻ thanh tao đáng đọc". Nghệ thuật là một sự khám phá, sáng tạo mới mẻ độc đáo. Không độc đáo không có nghệ thuật. Lê Quý Đôn chỉ dùng một chữ "đáng đọc" cũng đủ thấy quan niệm và tiêu chí bình chọn thơ hay của ông. Đây là bài thơ:
Trà giang giang thượng trĩ dao cầm,
Vạn lục yên trung khảm vũ thâm.
Hoa đắng bàn không vô lục tích,
Phất đài ỷ thạch thính u cầm.
dịch thơ:
Trên sông Trà nguy nga non ngọc,
Trong khói xanh nổi nóc chùa lên.
Đường hoa gót tục không in,
Phẩy rêu, tựa đá, nghe chim trong rừng.
Đọc "Hà Tiên thập vịnh cảnh" của Mạc Thiên Tứ, ông xúc động mà viết: "Không thể cho là ngoài bể không có văn chương". Ông ghi hai bài thơ vịnh cảnh thứ chín và thứ mười của nhà thơ này kèm theo lời bình: "Xem hai bài thơ trên, cũng có thể biết chí khí của Thiên Tứ vậy". "... Biết chí khí của Thiên Tứ" không phải đây là thơ nói chí. "Chí khí"
là tấm lòng của nhà thơ minh hương đối với vùng đất Hà Tiên - quê hương
thứ hai của mình. Chí khí là hồn thơ nhạy cảm với cái đẹp, khát vọng về
cái đẹp mãi tồn tại trong đời :
Viễn viễn thương lương hàm tịch chiếu,
Lư khê yên lí xuất ngư đăng.
Hoành ba yểm ánh bạc cô đĩnh,
Lạc nhật sâm si phù trạo tăng.
Nhất lĩnh sòa y sương khí bách,
Kỉ thanh trúc trạo thùy quang ngưng.
Phiêu linh tự tiếu uông dương ngoại,
Dục phụ ngư long khước vị năng.
dịch thơ:
Xa xa làn biếc ánh tà,
Bến Lư trong khói lộ ra ngọn đèn.
Dập dờn ngang sóng buộc thuyền,
Mặt trời vừa lặn nổi lên phao chài,
Hơi sương lạnh thấu áo tơi,
Tiếng chèo tăm tắp nước ngời sáng pha.
Lênh đênh ta lại cười ta,
Muốn theo rồng cá còn xa xa vời.
Đọc
những bài thơ danh sĩ Thuận Hoá, Nguyễn Cư Trinh hoạ những bài "Kim dữ
lan đào", "Lư khê ngư bạc" của Mạc Thiên Tứ, Lê Quý Đôn cho thơ Nguyễn
Cư Trinh "nhiều bài khá lắm", v.v...
4.
Với những gì đã điểm qua, chúng ta cảm phục năng lực thụ cảm tinh tế,
sắc sảo và lối viết lời bình ngắn gọn, khúc chiết, nhưng thấm đẫm cảm
xúc của Lê Quý Đôn khi thương thức thơ văn của dân tộc. Lời bình của ông
thâm sâu, có thể người viết không thể hiểu hết được. Người viết chỉ
mong ước một điều: bày tỏ lòng kính trọng nhà bác học và học tập được
phần nào nghệ thuật bình thơ văn của ông đã là quý lắm rồi!
Hoàng Dục
11- 2006
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét