Truyện ngắn CHỊ ĐOÀI
Dương uyển Châu
Chị về với anh chưa ấm hơi, anh đã đi xa. Ngày tiễn anh, chị nước mắt chạy quanh, anh lóng ngóng, kín đáo đặt lên môi chị nụ hôn hẹn ngày trở lại. Chị quay về mang theo tiếng sóng ì oạp của bến đò Phù Nông từ dạo ấy.
Từ dạo ấy chị bền lòng chờ anh. Chị chờ anh cũng đã hơn năm năm. Cũng từ dạo ấy, suốt ngày chị chân không bén đất, ngồi không ấm chỗ. Chị hết ruộng đến nương, hết sông đến hói. Nhưng chị vẫn mỏng mềm trong đạo làm dâu. Bố mẹ anh có chị cũng nguôi ngoai lúc tuổi xế chiều. Bà hiền như đất, quẩn quanh trong vườn. Ông sáng trong như chữ nghĩa Thánh hiền, khi đọc vè Mụ Đội, lúc ôn lại tứ Thư. Nhàn rỗi, ông gọi lũ trẻ hàng xóm nhổ lông chân cho đã ngứa. Ông trả công chúng một con nai vẽ một nét trên giấy bổi hay một câu chuyện Trạng Trình, Trạng Lợn. Ông bà thương chị như đã chăm chút anh Tín, đứa con hũ mắm treo đầu giàn của họ.
Căn nhà của chị, ban ngày, tỏa ra một không khí ấm êm. Nhưng đêm về, hình như thóang nét âm trầm đến lạ. Ông bà thường trở mình, thở dài. Tiếng chõng tre cót kẹt hòa nhịp với tiếng mọt ăn gỗ lét két nghe nao nao buồn. Còn chị thao thức băn khoăn. Mẹ ơi ! Sao mẹ khéo đặt tên con. Mẹ thấy trước đời con hay mẹ gởi câu hát thương cha rầu rầu vào tên con. “Đường về xứ Nghệ xa xanh, Chàng đi để thiếp một mình sao đang”. Tự dưng chị nghĩ về cha, ông đồ Nghệ chị chưa hề biết mặt. Chị sinh ra, cha đã về quê, rồi chẳng bao giờ trở lại. Chị lại ngóng về phương cha như người mẹ đã khuất của chị ngày nào. Và đêm nay, chị lại mơ màng hình bóng của cha, cái hình bóng mà mẹ thường kể với giọng hồi tưởng yêu thương pha lẫn trách hờn. Bóng cha hiện về chờn rờn lòa nhòa, rồi tan lõang trong bóng anh hiện hình rõ nét. Ước gì có anh bằng xương bằng thịt lúc này. Chị bỗng đặt tay lên bụng: phải chi ngày ấy...
Có tiếng ru con nhà hàng xóm vọng sang. Chị trở dậy, rón rén ra vườn sau, lò dò về phía tiếng ru. Gió biển thổi vào hiu hiu mà se lạnh. Những ngọn tre cụm đầu vào nhau đung đưa theo điệu ru. Chị nghe lòng mình hao hụt qúa ! Bao đêm chị đã đắm mình trong tiếng ru của người đàn bà hàng xóm ấy. Nhưng đêm nay, giọng ru sao mà buồn thê thiết, rời rã như thế. Chị cảm thấy hồn mình rỗng không đến lạ lùng. Chị rướn mình nhìn qua hàng chè tàu. Đèn nhà hàng xóm tù mù liu riu. Chị căng mắt kiếm tìm bóng người đàn bà ngồi ru nôi dập dờn trên vách như những hôm nào. Tất cả lòa nhòa rồi biến mất cùng lời ru. Có lẽ, người ru đã thiếp đi trong mệt mỏi. Đứa bé chòang khóc. Người đàn bà giật mình ru lấy ru để và hát lạc điệu. Có tiếng đàn ông càu nhàu. Mả cha mi, khóc chi mà khóc dữ rứa. Dỗ hắn nín đi. Dỗ không xong thì đừng đẻ. Vô tình, chị bứt một ngọn chè đưa lên miệng nhâm nhi. Vị chè tàu sao mà đắng chát và nhạt thếch thế không biết. Chị bước hẫng về cái buồng tối om của mình. Rồi chị thiếp đi, chìm vào giấc mơ làm mẹ. Chị thấy mình đang đưa nôi và cất lời ru buồn. “Chàng về thiếp một theo mây, Con thơ để lại chốn này ai nuôi !” Tỉnh ra, chỉ có khỏang tối trước mặt chị. Bên nhà hàng xóm, tiếng à ơi đã nín bặt lâu rồi.
*
* *
Chị Đoài chửa hoang, cái tin ấy loang nhanh như lửa bén rơm khô. Khắp làng Môn đâu đâu cũng loanh quanh xầm xì về cái tin ấy. Con mụ chửa hoang với thằng chỉ huy dân vệ chớ chi nữa. Đêm mô thằng nớ cũng đóng quân trong nhà. Tui nghi lắm ! Hôm bọn dân vệ bắt mụ Đoài ra đình cam kết không liên lạc che dấu Việt Cọng, hắn nhìn mụ háu háu si dại lắm. Mà thằng nớ cũng đẹp trai đáo để, răng mà không chửa ? Chưa chắc mô. Tui dám nói như rứa đó. Thằng chỉ huy ác ôn nớ hiếp mụ Đoài thì có. Mần răng mụ quên hắn đã tra tấn hai ông bà gia và bao nhiêu người có con, chồng đi tập kết ở cái làng này. Tội nghiệt quá ! Con mụ xưa nay hiếu thảo nết na, mà nay lại bị thằng ác ôn nớ bôi tro trát trấu. Này, tui thì nghĩ khác. Mấy O có nhớ không ? Cả tháng ni, mụ Đoài ngày nào cũng đi nơm cá, bắt hến ở bến đò Phù Nông. Có nhiều bữa mụ ta nơm cá dọc theo hói lò Gạch, nơm sâu tận lùm mưng, đến tối mịt mới về. À, có khi mụ ở lại buổi trưa nữa. Mấy O có thấy, những ngày ấy, mụ ta lạ lắm không ? Miệng mụ nín khe mà mắt thì lấp láy vui vui răng đó. Chắc chồng mụ về họat động bên nớ rồi. Dám con ông Tín chớ chẳng chơi. Bao nhiêu lời bàn, chẳng biết đúng sai thế nào. Chỉ biết mấy tháng sau, chị lấy thằng chỉ huy dân vệ làm chồng.
*
* *
Chị lấy chồng, người làng Môn ai cũng tránh chị như tránh một con hủi. Riêng cha mẹ của anh chẳng trách chị nửa lời.
Ngày chị sinh thằng Trung, ông bà vui lắm. Ông gặp ai cũng khoe: không có cháu nội thì tôi có cháu ngoại mà bồng rồi. Người làng Môn bảo ông lú lấp, không trách làm chi. Còn bà thì lo cho chị mẹ tròn con vuông. Mỗi lần bồng thằng bé, bà nựng: cha mi, thằng chó con, răng mà giống... Những lúc như thế chị im lặng nhìn bà mà lòng rộn lên bao điều hạnh phúc. Chị thầm khấn nguyện: Anh Tín ơi, sao anh không sống mà nhìn mặt con ? Anh sống khôn thác thiêng, chớ trách em sao lại lấy thằng ác ôn làm chồng. Em biết làm sao được. Em phải giữ giọt máu của anh. Em phải làm thế mới phụng dưỡng được cha mẹ của anh. Con chúng mình lớn lên, em sẽ đưa nó qua bến đò Phù Nông như anh ngày xưa. Anh nhớ phù hộ cho con sức khỏe chóng lớn nghe anh.
Không biết anh Tín có phù hộ hay không mà thằng bé lớn nhanh như thổi. Thằng chỉ huy dân vệ cưng lắm. Mà thói thường nuông chiều qua hóa hư. Thằng Trung càng lớn càng trái tính trái nết, càng vô phép vô tắc. Chị có rầy la thì tên chỉ huy dân vệ lại nạt nộ chị. Hắn lại dỗ ngọt dỗ ngào thằng bé. Mà hắn dỗ ngọt thằng bé cũng phải thôi. Bởi hắn biết, hắn không thể có con sau lần bị thương ấy. Hắn không thể chịu cảnh “tò vò mà nuôi con nhện” được. Thằng bé mang họ hắn, hắn phải kéo thằng bé về phía mình. Hắn phải xin đổi đi xa, càng xa làng Môn càng tốt, càng xa bến đò Phù Nông càng hay. Và hắn xin đổi đi thật. Cha mẹ của anh đã mất , chị chẳng có lí do chính đáng nào mà ở lại.Thế là chị phải theo chồng. Từ đó, không ai biết chị ở đâu. Dân làng Môn hình như cũng không còn nhớ đến chị. Họ đã quên chị lâu rồi kia mà.
*
* *
Nhưng một ngày, ở làng Môn bỗng xuất hiện một người đàn bà điên tóc rối nùi bạc phơ. Người đàn bà điên chẳng làm hại ai. Ai cho gì ăn nấy. No đói thế nào không biết, nhưng ngày nào cũng lần ra bến đò Phù Nông, ngồi lặng lẽ. Mắt lạc thần nhìn đâu đó sau lùm mưng gìa. Khuôn mặt người đàn bà chảy dài như khóc, miệng lảm nhảm những lời như gió heo may, nghe tiếng được tiếng mất: ôi con ... giết người ... con tù con tội, ...mẹ giết con rồi con ơi. Ôi..., em có tội với ... anh ơi ! Rồi khanh khách cười. Rồi thả ra một giọng hò chới với: “Ai làm chi đó hỡi ai. Sao không trót dại như người đa mang ?” giữa những con sóng ì ọap ở bến đò Phù Nông.
Người đàn bà điên, ai biết đâu ? Phải chăng đó là chị Đoài... chị Đoài ... ngày xưa !
Đà Nẵng, 12-2000
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét