I. Dẫn nhập :
1.“Thi pháp hiện đại” của Đỗ Đức
Hiểu là một tác phẩm lí luận và phê bình văn chương. Tác phẩm dày 400 trang, do
Nhà xuất bản Hội nhà văn, Hà Nội ấn hành,
năm 2000.
2. Tác phẩm gồm 4 phần chính và một
phần có thể gọi là phụ lục. Bốn phần chính là: Thi pháp học, phê bình thơ, phê
bình truyện và phê bình kịch. Phần phụ lục gồm: đối thoại và trò chuyện.
3. Tác phẩm là một công trình nghiên
cứu khái quát về thi pháp và vận dụng thi pháp để phân tích khám phá vẻ đẹp của
văn chương. Có thể khẳng định rằng tác phẩm là tâm huyết của tác giả đối với
nền văn học dân tộc, với vấn đề tiếp nhận văn chương hiện đại.
II. Nội dung cơ
bản:
1. Phần I: Thi pháp học:
a. Trong
phần này, tác giả bàn về thi pháp học và khái quát những vấn đề có tính chất
lịch sử phê bình như phê bình mới, khái quát về Bakhtine – người đặt nền móng
cho thi pháp học và bàn về vấn đề đọc văn chương.
b. Nội
dung chủ yếu là“Mấy vấn đề thi pháp học”.
- Khái niệm sơ giản về thi pháp: Thi pháp
là phương pháp tiếp cận, tức là nghiên cứu, phê bình tác phẩm văn học từ các
hình thức biểu hiện bằng ngôn từ nghệ thuật, để tìm hiểu các ý nghĩa hiển hiện
hoặc tiềm ẩn của tác phẩm: ý nghĩa mỹ học, triết học, đạo đức học, lịch sử, xã
hội học v.v. Nói cách khác, thi pháp là mỹ học của nghệ thuật văn chương hay
nghệ thuật ngôn từ.
- Khái quát về thi pháp thể loại:
+
Thi pháp thơ: Tác giả dựa vào lí thuyết của Bakhtine về thơ: Thơ là tiếng nói
độc bạch (monologic) và nhận định của Jakobson và một nhà thi pháp học khác:
Thơ là hệ biến hoá trên sơ đồ trục dọc, tức là trục lựa chọn, thay thế, tương
đồng quy chiếu, trục của các ẩn dụ. Từ đó, tác giả rút ra những đặc trưng của
thơ như sau:
* Cấu trúc trùng điệp (âm thanh, nhịp
điệu, ngữ nghĩa,...)
* Kiến trúc đầy âm vang.
* Nhiều khoảng trống, khoảng trắng.
* Chất nhạc tràn đầy.
+
Thi pháp truyện: Thi pháp tiểu thuyết miêu tả các cấu trúc, các yếu tố hợp
thành ngôn từ tiểu thuyết, chủ yếu là thời gian, không gian, nhân vật, kể
truyện, bình luận, ngoại đề, độc thoại, mở đầu kết thúc, v.v. Từ sự khái quát
nêu trên, tác giả căn cứ vào phương pháp kí hiệu học của Bakhtine trong tác
phẩm “Mỹ học và lý luận Tiểu thuyết” (1975), cụ thể hoá hai đặc trưng cơ
bản sau của tiểu thuyết:
* Tính đa âm hay tính đối thoại: Tính đa âm thể hiện qua ngôn ngữ tác giả,
ngôn ngữ nhân vật, ngôn ngữ người kể chuyện. Tất cả tạo nên tính nhiều giọng,
tính đa thanh, tính phức điệu của truyện trong quá trình đối thoại ở cấu trúc
nội tại của văn bản nghệ thuật ngôn từ và cấu trúc bên ngoài tác phẩm như các
nghệ thuật khác, đạo đức học, triết học, xã hội học,... Chính điều đó khiến cho
tiểu thuyết có tính đa phong cách như “tháp Babel”.
* Thời gian – không gian: Đây là tính
hiện đại của tiểu thuyết, nó cụ thể, bám sát lịch sử, mang tính xã hội hơn các
loại thể khác. Không gian gắn chặt với thời gian khiến tiểu thuyết hiện đại
không khép kín mà luôn luôn biến động và hướng về tương lai.
+
Thi pháp kịch: Tác giả chủ yếu nghiên cứu văn bản kịch và khẳng định đặc trưng
số một của kịch là đối thoại. Kịch là một văn bản đối thoại, nhưng với kịch
phương Đông, đặc biệt là kịch Nô của Nhật Bản thì đối thoại không chỉ là ngôn
ngữ mà còn là ngôn ngữ của múa, hát, cái bóng,...
+
Phê bình phong cách học: Khám phá cái
đẹp của tác phẩm văn chương dựa trên những đặc trưng nghệ thuật ngôn từ của một
tác phẩm, một tác giả. Qua đây, tác giả đưa ra sự khác biệt giữa phê bình phong
cách học và phê bình thi pháp học. Theo ông phê bình thi pháp học là nghiên cứu
“phong cách lớn” tức là nghiên cứu “tính văn học” của một trào lưu, một thời
đại văn chương.
- Tác giả kết luận:
+
Thi pháp bao gồm ký hiệu học, phương pháp cấu trúc và những phương pháp khác
như phương pháp “phát sinh học”, phương pháp “chủ đề”, phương pháp triết học,
phương pháp phân tâm học, phương pháp lịch sử – xã hội học, v.v.
+
Thi pháp học ngôn ngữ là “người anh hùng” của nghiên cứu, phê bình văn học; là
phương pháp phê bình mới chiếm ưu thế trên thế giới từ ba mươi năm nay.
2. Phần II: Phê bình thơ:
a. Phần
này, tác giả vận dụng những khía cạnh của thi pháp học hiện đại để khám phá vẻ
đẹp của một số tác phẩm và tác giả thơ ca như: Thế giới thơ nôm Hồ Xuân
Hương, Truyện Kiều của Nguyễn Du, Từ Hải hay ước mơ biển cả, Thơ Mới cuộc nổi loạn của ngôn từ thơ, 14 tháng bảy
1789 và Thi nhân Việt Nam, Chùa Hương của Nguyễn Nhược Pháp, Tiếng thu, thơ
nhạc của Lưu Trọng Lư, Ông Đồ của Vũ Đình Liên và Thế giới ngôn từ thơ của Đặng
Đình Lưu.
b. Khái
quát những nội dung cơ bản của các bài phê bình thơ:
- “Thế giới thơ nôm Hồ Xuân Hương”:
Từ góc nhìn thi pháp hiện đại, Đỗ Đức Hiểu đã phát hiện và khẳng định: Hồ Xuân
Hương là một nhà thơ đầy sáng tạo. Sáng tạo của Hồ Xuân Hương là tạo ra một phong
cách thơ luật Đường mới, một thế giới đời thường thắm tươi, một thiên nhiên
tràn đầy sức sống, một triết lí tự nhiên của cuộc đời trần thế, của trực giác,
cảm giác, bản năng, say mê. Nhịp thơ nhảy múa, âm thanh vang động. Thơ Hồ Xuân
Hương là thơ hành động không phải là thơ tâm tình, thơ trạng thái như thơ bà
Huyện Thanh Quan thể hiện qua những từ hoạt động giữ vị trí “chúa tể” của nhịp
thơ, gây biến động trong thơ. Hồ Xuân Hương là một nghệ sĩ tạo hình. Ngôn ngữ
tạo hình trong thơ bà tạo nên các hình thù
động đậy gọi dậy sức sống tiềm năng của con người, chuyển đạt những ẩn
dụ bản năng cuộc sống. Từ việc khảo sát ngôn từ tạo nhjp điệu, hình học, âm
thanh,... của thơ, Đỗ Đức Hiểu đi đến kết luận: Thơ Hồ Xuân Hương có bốn
mô-típ: Hang động, Văng vẳng, Trắng son, Trăng khuya.
Mỗi mô-típ mang một ý nghĩa riêng sâu sắc độc đáo. Mô-típ Hang động thể hiện
cái đẹp thiên nhiên, tự nhiên của người phụ nữ. Mô-típ Văng vẳng gợi không khí
sầu thảm bao trùm vũ trụ, sự cô đơn rờn rợn của người phụ nữ. Mô-típ Trắng son
khẳng định cái đẹp vĩnh cửu của người phụ nữ, biểu thị cái đẹp lí tưởng.
“Truyện Kiều của Nguyễn Du”: Tìm hiểu sự ra đi của Thuý
Kiều, tác giả khảo sát bình diện không gian của sự ra đi . Đó là hình tượng
không gian: Trong nhà. Nhà Vương Ông đầy nươc mắt. Tác giả dùng phạm trù
tương đương và ẩn dụ để nói đến nước mắt. Trong nhà Tú Bà là sự đau khổ ngỡ
ngàng được miêu tả ở nhịp thơ và những tiếng điệp. Trong nhà họ Họan là nỗi đau
khổ, đầy nước mắt được Nguyễn Du sử dụng nhiều phương thức nghệ thuật, nhất là
sự tương phản giữa phong cách cao và phong cách thấp tạo nên cái hài hước hoặc
cái bi kịch. Từ hình tượng không gian ấy, tác giả bàn đến sự trốn ra đi của
Thúy Kièu. Ra đi khỏi gia đình, trốn khỏi lầu xanh, nhà Họan Thư; Thúy Kiều
trải qua ba nẻo đường mờ mịt. Cả ba lần ấy, Nguyễn Du đều dùng tiếng “liều”
để biểu đạt ý chí của Kiều như “Thà rằng liều một thân con”, “Đánh
liều nhắm mắt đưa chân”, “Cũng liều một hạt mưa rào”,... Từ đấy, Đỗ
Đức Hiểu nêu ý kiến: Tiếng “liều” trong những câu thơ trên có chức năng chuyển
đọan, báo hiệu một biến động trong cuộc đời nhân vật. Đó là linh cảm kinh
nghiệm của người đàn bà khốn khổ ấy trước thế giới tàn nhẫn; nó biểu đạt ý chí
không khuất phục của Kiều. Nàng không chấp nhận cuộc sống đau khổ trong nhà, bị
đe dọa, ra đi kiếm tìm một cuộc đời đích thực.
- Bài thơ Ông Đồ của Vũ Đình
Liên. Bài thơ này, theo Đỗ Đức Hiểu, sự ra đi của
“ông đồ” với Vũ Đình Liên có ý nghĩa là sự ra đi của một thời xinh đẹp, của một
nền văn dân tộc đang đô thị hóa dữ dằn và tàn nhẫn. Triết lí này được biểu thị
bằng ngôn từ thọat đầu là màu sắc âm thanh ồn ào, tươi rói rồi dần dần xa vắng,
mênh mông. Nếu căn cứ vào sự điệp trùng cấu trúc của các đọan thơ, điệp trùng
của nhịp, trùng điệp đối xứng của từng cặp sóng đôi, tha thiết không thôi. Sự
trùng điệp khiến hình ảnh tòan vẹn về ông đồ mờ dần, biến hẳn; ngược lại, diễn
biến tình cảm, nỗi cô đơn của nhà thơ lại tăng dần. Tất cả tạo cho Ông đồ một
chất thơ tuyệt đối, tính nhạc thuần túy. Vì vậy, bên cạnh chủ đề “hoài cổ”, bài
thơ còn là triết lí thời gian: Thời gian khách quan; thời gian con người, thời
gian văn hóa. Hai thời gian này va chạm nhau gây nên những bi kịch.
- Bài thơ Tiếng
thu của Lưu Trọng Lư. Đỗ
Đức Hiểu tập trung phát hiện tính nhạc của ngôn từ thơ ca. Tính nhạc ấy thể
hiện sự rung động bên trong của tâm hồn nhà thơ. Bài thơ có thể có hai kết cấu.
Kết cấu 1 là 2 câu đầu, 3 câu tiếp và 4 câu còn lại. Kết cấu này biểu đạt sức
tăng dần sự xao động bên trong, sự chuyển động ngoài của thiên nhiên. Đó là sự
tăng dần của âm điệu bài thơ. Kết cấu 2 là 7 câu đầu và 2 câu cuối. Kết cấu này
tạo nhạc êm ả, một nét vàng tô đậm: con nai vàng ngơ ngác là hình ảnh nhà thơ
cô đơn, lạc lõng trong cuộc đời trần tục. Con người và thân phận đau khổ của nó
là tư duy triết lí của “Tiếng thu”.
Từ
đó, Đỗ Đức Hiểu khái quát: Thơ mới là sự hòa quyện giữa phương Đông và phương
Tây, là sự hòa tan vào chất dân tộc Việt Nam, thơ Đường, thơ Pháp, cổ và
hiện đại. Và tác giả cho rằng, thơ mới ảnh hưởng thơ Pháp là chưa chính xác.
Theo ông, các nhà thơ Việt Nam
có một nền văn hóa vững vàng và mở; có trái tim khao khát ánh sáng tự do, khao
khát giao hòa với thế giới, với con người. Chính điều đó đã khiến các nhà thơ
mới tiếp biến tư tưởng cao đẹp của thơ Pháp.
3. Phần III: Phê bình truyện:
a.
Phần này Đỗ Đức Hiểu vận dụng thi pháp truyện để khám phá vẻ đẹp của Hai đứa
trẻ của Thạch Lam, Số đỏ của Vũ Trọng Phụng, Vang bóng một thời
của Nguyễn Tuân, Sống mòn của Nam Cao, Tiểu thuyết của Nhất Linh, Phiên
chợ Giát của Nguyễn Minh Châu, Truyện ngắn của Phạm Thị Hoài, Thân phận
tình yêu của Bảo Ninh, truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp, Nước thiên đàng
của Đào Duy Hiệp và Kỉ niệm 200 năm Balzac.
b.
Khái quát nội dung cơ bản một số bài phê bình:
- Hai đứa trẻ của Thạch Lam chủ yếu tác giả khám phá
không gian phố huyện. Đỗ Đức Hiểu khảo sát sự xung đột giữa “không gian bóng
tối” và “không gian ánh sáng”. Từ đó ông đi đến kết luận: Thạch Lam
đã dùng lời tâm tình thủ thỉ; bằng cách mô tả bóng tối lấn dần không gian, nghệ
thuật hồi tưởng bừng sáng chốc lát bằng ngôn từ dịu nhẹ, những câu nhiều thanh
bằng, Thạch Lam thúc gịuc con người hãy suy nghĩ về số phận người phụ nữ.
- Tiểu thuyết Sống mòn của Nam Cao.
Đỗ Đức Hiểu tìm hiểu không gian xã hội, đó là nhà quê và ngoại ô Hà Nội nhem
nhuốc, trái ngược với tinh thần, mơ ước và khát vọng của con người. Hai bức
tranh trái ngược đó cho thấy “Sóng mòn” gây tình trạng bất ổn trong tâm
tư con người, nó hé mở cuộc sống tự do, chân chính của người trí thức.
- Những lớp sóng ngôn từ trong “Số đỏ”:
Theo tác giả, “Số đỏ” là một hiện tượng ngôn từ hết sức độc đáo, đánh
dấu thời đại. “Số đỏ” đồng thời là một cái cười lớn, một cái cười nhại.
Phong cách này tạo cho tác phẩm những giá trị lâu dài, nhất là về các phương
diện lịch sử, xã hội, triết học. Với “Số đỏ”, Vũ Trọng Phụng đã sáng tạo
một thể loại tiểu thuyết mới, là “một cuốn Bách khoa” các loại
hình tiểu thuyết.
Lớp sóng ngôn từ phát đi từ “Số đỏ”
là lớp sóng từ đô thị. Đỗ Đức Hiểu khẳng định, Vũ Trọng Phụng là nhà văn đô thị
nhất của chúng ta.
Ngôn
từ Vũ Trọng Phụng tung hòanh đầy hứng thú và hiểu biết cái đô thị điêu toa, giả
dối.
Ngôn
từ “Số đỏ” vừa dân gian vừa đài các, vừa cổ điển vừa hiện đại, vừa thô
tục vừa cao đạo, tức là lổn nhổn không đồng chất, với những âm thanh hỗn lọan,
biểu đạt tinh thần đô thị nhão nhọet, lọan Âu hóa của xã hội “bình dân”,
một chính thể thuộc địa lưu manh, lừa dối, hay một đô thị đang hóa thân một
cách kinh khủng với những mỹ từ lừa bịp, mị dân.
Đỗ
Đức Hiểu lại cho rằng: Tên các nhân vật của mỗi giải thưởng là một hệ thống kí
hiệu mang ý nghĩa và có thể là một đối tượng khai thác của người phê bình,
nghiên cứu văn học. “Số đỏ” là một văn bản chứa đựng nhiều văn bản, nó
là tiếng vang, là giao điểm của nhiều văn bản mang những mối quan hệ bên trong
với các văn bản khác, đồng thời là một sáng tạo mới của tài năng nghệ sĩ. Vì
vậy, “Số đỏ” là một hệ thống ngôn từ đặc sắc mang tính xã hội, lịch sử
cụ thể.
4. Phần IV: Phê bình kịch:
a. Phần này, Đỗ Đức Hiểu bàn đến bi kịch Vũ Như
Tô ( Vũ Như Tô của Nguyễn Huy Tưởng) và phong cách kịch của Đòan Phú Tứ.
b.
Bi kịch Vũ Như Tô: Tác giả cho rằng, với thời gian chưa đầy ba mươi năm, nhưng
vở kịch Vũ Như Tô của Nguyễn Huy Tưởng đã đưa thể loại kịch lên đến đỉnh cao.
Kịch Vũ Như Tô là sự sáng tạo bi kịch mới của Nguyễn Huy Tưởng, cái bi kịch
kiểu phương Tây trên sân khấu hiện đại Việt Nam. Cái đẹp cao cả và đẫm máu, đó
là dư âm của “Vũ Như Tô”. Nhà phê bình cho rằng, muốn nhận thức ý nghĩa
của kịch bản, cần thiết phải tháo gỡ, bổ sung, phân tích cấu trúc kịch bản;
những đối thoại và độc thoại, những chỉ dẫn sân khấu. Cũng như nhiều nhà phê
bình khác, Đỗ Đức Hiểu nhận định: Nguyễn Huy Tưởng “đã xây dựng được một Vũ
Như Tô cao đẹp, lộng lẫy, nghệ sĩ và kẻ sĩ với khát vọng mênh mông về cái Đẹp,
dân tộc và nhân bản”.
III.
Đánh giá:
1. “Thi pháp hiện đại” là một cuốn
sách được viết ra bằng cả tấm lòng của Đỗ Đức Hiểu đối với học thuật nước nhà
và đối với người tiếp nhận văn chương Việt Nam đương đại của ông. Bởi lẽ, tác
phẩm không là một tác phẩm thuần lí lụận, hay lí luận mang tính uyên bác mà chỉ
nêu ra những đặc trưng cơ bản của thi pháp thể loại và vận dụng chúng vào quá
trình tiếp nhận một số tác phẩm văn chương cụ thể. Tâm huyết đó thể hiện rõ trong bài “Đọc văn chương”
trang 59, đó là “Đọc văn chương là một khoa học xứng đáng được các thầy
giáo, cô gíao quan tâm, các nhà phê bình, nghiên cứu hội thảo”.
2. “Thi pháp hiện đại” đã đem đến
cho người đọc một số điểm nhìn mới mẻ về một số tác phẩm văn chương Việt Nam. Đó là
những mô-típ Hang động, Văng vẳng, Trắng son và Trăng
khuya trong thế giới thơ nôm của Hồ Xuân Hương; từ đó giứp người đọc vừa
tiếp nhận khái quát vừa cụ thể giá trị thẩm mỹ của thơ Hồ Xuân Hương. Đó là
không gian trong nhà và sự ra đi của Thúy Kiều; qua đấy người đọc cảm nhận cụ
thể thế giới nội tâm đầy biến động và thân phận khổ đau của nàng Kiều. Và góc
nhìn mới mẻ về diễn biến tình cảm của nhà thơ Vũ Đình Liên trong bài thơ “Ông
đồ”. Diễn biến ấy được Đỗ Đức Hiểu minh họa rõ bằng thao tác chia tách từng
câu thơ của bài thơ rồi ghép lại thành hai bài. Bài một nêu lên hình ảnh tòan
vẹn về ông đồ mờ dần, biến hẳn. Bài hai: Ông đồ chìm dần, nỗi cô đơn của nhà
thơ tăng dần. Cái mới trong sự cảm nhận bài thơ “Tiếng thu” là tác giả
đã nêu hai kết cấu để thấy được sức tăng dần từ xao động bên trong đến chuyển
động bến ngoài của thiên nhiên và để nắm bắt một rõ nét hình ảnh nhà thơ trong
cuộc đời - cô đơn lạc lõng giữa trần tục. Cái mới của bài viết “Những lớp
sóng ngôn từ trong Số đỏ” là sự phát hiện lớp sóng từ đô thị trong tác phẩm
để rồi tác giả khẳng định: Vũ Trọng Phụng là nhà văn đô thị nhất của chúng ta.
Đỗ Đức Hiểu cho rằng tên các nhân vật của mỗi giải thưởng là một hệ thống kí hiệu
mang ý nghĩa và có thể là một đối tượng khai thác của người phê bình nghiên cứu
văn học.
3. Tuy nhiên, những bài viết của tác giả
“Thi pháp hiện đại”, theo thiển ý của chúng tôi là cần trao đổi để làm
rõ thêm. Chẳng hạn, sau khi nêu khái niệm thi pháp và những đặc trưng thi pháp
thể loại, Đỗ Đức Hiểu cho rằng : Thi pháp học ngôn ngữ là “người anh hùng”,
“là tiếng nói mới, chiếm ưu thế trên thế giới từ ba mươi năm nay”. Liệu
thi pháp có là tất cả, là bao trùm các phương pháp lĩnh hội phê bình văn chương
hay không, hay chỉ là một trong những
chìa khóa mở cánh cửa của tác phẩm để khám phả vẻ đẹp của nó. Hơn nữa, vẻ đẹp
của văn chương chỉ có thể khám phá trên cơ sở liên ngành. Hoặc như, trong “Thế
giới thơ nôm Hồ Xuân Hương”, tác giả kết luận “thơ Hồ Xuân Hương là thơ
hành động không phải là thơ tâm tình, thơ trạng thái như thơ bà huyện Thanh
Quan”. Hiểu thế nào là thơ hành động? Vậy thì những bài thơ viết dưới đề
tài tình yêu và gia đình của nữ sĩ thì sao? Nếu là thơ hành động, tại sao, Đỗ
Đức Hiểu lại cho rằng: “Hồ Xuân Hương đả kích giai cấp thống trị hoặc ...
tát vào mặt bọn phong kiến đạo đức giả là không chính xác ?” Với “Truyện
Kiều của Nguyễn Du”, khi phân tích sự ra đi của Thúy Kiều, tác giả nhấn
mạnh đến chữ “liều” trong các câu thơ: “ Thà rằng lièu một thân con”,
“Đánh liều nhắn một hai lời”, “Cũng liều một hạt mưa rào”. Tác
giả nhận xét tiếng “liều” có chức năng chuyển đọan, nó báo hiệu một biến
động trong cuộc đời nhân vật...nó biểu đạt ý chí không khuất phục của Thúy
Kiều: Nàng không chấp nhận cuộc sống đau khổ trong nhà bị đe dọa, ra đi kiếm
tìm một cuộc đời đích thực. Giải mã chữ
“liều” như vậy liệu có thỏa đáng không ? Nếu đặt tiếng “liều”
trong tính hình tuyến của ngôn ngữ thì ý nghĩa của chữ “liều” đó thế
nào?
IV.
Kết luận:
Trên đây là những thông tin cốt
lõi và cảm nhận một cách khái quát của chúng tôi khi đọc cuốn “Thi pháp hiện
đại” của Đỗ Đức Hiểu. Vì năng lực có hạn, cho nên, bài viết này có thể có
những nhận xét mang tính chất phiến diện, chủ quan. Chúng tôi rất mong sự góp ý
của Thầy giáo và các bạn.
Hoàng
Dục
11-2001
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét