1.
Trong “Thi nhân Việt Nam”, Hoài Thanh và Hoài Chân đã phát hiện rất
tinh tế hồn thơ và cảm hứng tư tưởng thơ của Xuân Diệu: “Thơ Xuân Diệu
còn là một nguồn sống rào rạt chưa từng thấy ở chốn nước non lặng lẽ
này. Xuân Diệu say đắm tình yêu, say đắm cảnh trời, sống vội vàng, sống
quấn quýt, muốn tận hưởng cuộc đời ngắn ngủi của mình. Khi vui cũng như
khi buồn, người đều nồng nàn thiết tha.”.
Đúng như thế. Đi vào vũ trụ thi ca của Xuân Diệu, ta như mê li lạc giữa
thanh sắc trần gian, như say chuếnh choáng trước một thế giới xuân và
tình làm chủ. Và ở đây, cái tôi trữ tình tuổi trẻ của thi nhân luôn khát
khao giao cảm với đời; khát sống trẻ trung; muốn no nê hạnh phúc trần
gian. Nhưng cái tôi - tuổi trẻ ấy lại không thể khước từ thời gian
nghiệt ngã; không thể kéo dài tuổi thanh niên và mùa xuân. Vì vậy, cái
tôi cá nhân tự ý thức của thi sĩ luôn bị thời gian ám ảnh; luôn bị thời
gian giằng xé đến đau đớn. Cũng chính vì thế, Xuân Diệu khát khao chiến
thắng thời gian, nên luôn giục giã sống, “Vội vàng” yêu, “Vội vàng” giao
cảm với đời để thụ hưởng tận cùng sự sống - một “Sự sống chẳng bao giờ
chán nản”.
Đó là vẻ đẹp của bài thơ “Vội vàng” - một bài thơ đậm sắc màu triết lí thời gian và thể hiện lối ứng xử thời gian rất độc đáo của nhà thơ Xuân Diệu.
2. “Vội vàng” là một bài thơ hay. Thơ hay là thơ có tứ thơ đẹp và lạ; có kiến trúc nghệ thuật ngôn từ độc đáo. Thơ hay là thơ bàng bạc, lan toả một chất thơ nồng nàn làm xao xuyến say đắm lòng người. Nhưng thơ hay cũng là thơ chạm đến sự vĩnh hằng của nỗi niềm nhân bản, nhân văn.
Như vậy, một tuyệt phẩm thi ca phải là một thế giới nghệ thuật thấm đẫm chất “triết văn”. Trong thơ, nhà thơ vừa tạo được một lớp trầm tích triết học, vừa làm nên một chất triết lí bàng bạc trong tín hiệu, trong ngôn từ nghệ thuật về vũ trụ, về con người và về cuộc đời. Tất nhiên, “triết văn” không phải là triết luận trong thơ. Bởi thơ không nói lí, không chấp nhận sống chung với chủ nghĩa duy lí, tư duy lí luận. Thơ là ấn tượng, là xúc cảm. Thơ thiên về duy cảm của nhà thơ trước con người, cuộc đời và trời đất. Chính chất “triết văn” trong thơ là một trong những yếu tố tạo nên sức sống lâu bền của thơ. “Triết văn” là linh hồn, là cốt tuỷ của thi ca; giứp thơ nói lên tiếng nói chân lí nghệ thuật và chân lí cuộc đời; nói lên sự thật bên trong tâm hồn con người để thơ đi từ chân trời của một người đến chân trời của mọi người; để thơ có được một sự đồng cảm mãnh liệt, sâu sắc muôn đời.
Thơ chỉ có thể đạt được hiệu quả thẩm mĩ ấy, khi thơ là tiếng nói nghệ thuật về con người. Nói cách khác, thơ là tâm hồn con người - con người luôn bị đặt trong quan hệ ngang - dọc của vũ trụ (Cửu vũ), thời gian và không gian nghệ thuật. Hình tượng thi ca, cái tôi trữ tình trong thơ bao giờ cũng hiện hữu, đi về giữa hai miền không - thời gian ấy như Huy Cận từng nói; bài thơ đẹp là bài thơ luôn có sự rung động về không gian và thời gian. Phải chăng không-thời gian thơ đó là một nét “triết văn” làm đẹp, làm lắng đọng thi tứ và lan toả hình tượng nghệ thuật thơ.
Từ quan niệm về mối quan hệ giữa triết học và văn chương nêu trên, đi vào thế giới thơ Xuân Diệu, người đọc luôn bắt gặp cái tôi trữ tình cuả người thơ rưng rưng, băn khoăn, cuống quýt trong dòng trôi thời gian. Nhà thơ không muốn sống ngoi ngóp trong thời gian khách quan mà muốn vượt lên chiến thắng thời gian; bắt thời gian vật lí ngừng lại để vũ trụ này mãi mãi đầy tràn âm sắc, hương màu mùa xuân, tình yêu và tuổi trẻ. Nhà thơ mơ ước thời gian mãi bất biến, mãi cô đặc để mình được sống mạnh mẽ, đích thực giữa cõi thế. Nhưng tất cả chỉ là một giấc mơ đẹp mà không bền. Cho nên, từ triết lí thời gian, nhà thơ chọn một lối ứng xử thời gian tích cực để không còn bị ám ảnh của thời gian nữa.
Vì vậy, thơ Xuân Diệu trước Cách mạng tháng Tám luôn có bóng dáng của thời gian. Nói như Đỗ Lai Thuý, trong “Con mắt thơ”: “Thơ thơ là cách thức lấy nghệ thuật để vĩnh cửu hoá thời gian. “Gửi hương cho gió” là đem tâm hồn mình mà giao cảm với đời, mượn tình yêu để chiến thắng thời gian. Đặc biệt, trong “Thơ thơ”, bài thơ “Vội vàng” in đậm triết lí thời gian, lối ứng xử thời gian của Xuân Diệu”.
Như vậy, “Vội vàng” là bài thơ vừa có vẻ đẹp của thời tính trong triết học vừa có sự độc đáo đầy sáng tạo về thời gian nghệ thuật trong thơ Việt Nam hiện đại. Tìm hiểu thơ Xuân Diệu nói chung và bài thơ “Vội vàng” nói riêng, không thể không cảm thụ và phân tích thời gian triết lí và cách thế ứng xử với triết lí thời gian của nhà thơ. Tìm hiểu “Vội vàng”, chính là khám phá vấn đề “Từ thời tính triết học đến thời gian thơ “Vội vàng” của Xuân Diệu.
3. Trong lịch sử triết học, từ cổ đại đến hiện đại, từ Đông sang Tây, các triết gia khi bàn về bản nguyên thế giới, họ đều tìm cách lí giải hay khẳng định bản chất của thời tính trong học thuyết triết học của mình.
Ngay từ thời cổ đại, triết gia Ancimandre, thuộc trường phái Milet của triết học Hi Lạp đã khẳng định “thời gian là vô tận, là bản nguyên của sự vật”. Thời gian theo quan niệm của ông là vô thuỷ vô chung, là dòng chảy một chiều. Nhà triết học Aristote (384 - 322 TCN), người thầy của nhân loại thì cho rằng: Thời gian không liên kết với các vật thể. Theo ông, thời gian liên kết với vận động, nhưng thời gian không phải là vận động. Do vậy, thời gian không thể tồn tại nếu thiếu vận động, vì số lượng vận động xét trong quan hệ quá khứ và tương lai là sự chảy qua. Thời gian vô hạn, nếu như thế tất cả các quá trình đơn nhất đều bị huỷ hoại và độ dài lâu của chúng được đánh dấu bằng thời gian thì thế giới thống nhất và vĩnh cửu phải có độ dài lâu vô hạn. Thời gian không phải là vận động vì vận động có chậm có nhanh, còn thời gian ở đâu, lúc nào cũng vậy. Từ đó, Aristote kết luận: Thời gian là thước đo của vận động. Triết gia Parménide (Trường phái Elée) quan niệm thời gian là hữu thể bất biến.
Các nhà triết học hiện đại như Feuerbach, Hégel, Mark - Engel đều quan niệm thời gian là vô tận, không có khởi đầu và cũng không có kết thúc. Chẳng hạn, Feuerbach, nhà triết học cổ điển Đức, thế kỉ XIX cho rằng: Giới tự nhiên là vĩnh hằng, chỉ có những sự vật hiện tượng là có bắt đầu, có kết thúc trong thời gian; còn giới tự nhiên là vô tận trong không gian và thời gian.
riết học Phật giáo cũng quan niệm: Thời gian là vô thuỷ vô chung. Thời gian gồm tam kiếp: Đại kiếp, trung kiếp và tiểu kiếp. Trong mỗi tiểu kiếp có hàng chục triệu kiếp khác nhau. Thời gian trùng trùng duyên khởi, cho nên không có cái tôi.
Nhìn chung, quan niệm thời tính trong triết học có thể quy về các nét lớn như sau: Thời gian tuyến tính, thời gian phi tuyến tính, thời gian luân hồi và thời gian bất biến.
4. Những quan niệm triết học về thời gian tạo nên thời gian nghệ thuật trong bài thơ “Vội vàng” của Xuân Diệu:
Thời gian nghệ thuật trong bài thơ “Vội vàng” không chệch vượt ra ngoài lằn ranh của thời tính trong triết học đã nêu trên. Nhưng nếu tiếp nhận một cách cụ thể thế giới nghệ thuật trong tác phẩm, người đọc thức nhận thời gian trong bài thơ là thời gian tuyến tính, “mũi tên thời gian” (Hawpkin); thời gian biện chứng và thời gian bất biến thực tồn.
Trước hết, thời gian tuyến tính một đi không trở lại nhưng biện chứng, đó là thời gian triết học của Héraclite. Nhà triết học, theo đánh giá của Lênin, là người đầu tiên khai sinh phép biện chứng cho rằng: “Mọi thứ đều chảy”, “không ai có thể tắm hai lần trong một dòng sông”. Thời gian biến dịch, thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập. Thời gian là trường cửu và trường cửu lại chỉ xuất hiện trong thời gian. Con người không ai vượt ra khỏi biên giới của thời gian, đó là căn nguyên của phép biện chứng.
Sau hết là quan niệm thời tính của triết gia thời Trung cổ Augustin. Là nhà triết học tôn giáo, kinh viện; ông cho rằng thời gian là có khởi đầu do Chúa tạo ra. Ông quan niệm thời tính như là một phạm trù để lí giải đời sống tâm linh của con người thông qua việc miêu tả tính chất mâu thuẫn của sự hiện hữu con người trên thế gian này. Theo ông thời gian không tồn tại đích thực mà chỉ là hình ảnh tồn tại của sự vật, nên không thể phân chia thời gian thành quá khứ, hiện tại và tương lai. Diễn biến thời gian là sự chuyển tiếp tương lại thành hiện tại, hiện tại thành quá khứ. Như vậy, không có qúa khứ, tương lai thì không có hiện tại. Thời gian được đo bằng quá trình sinh-lão-bệnh-tử của con người và thể hiện ở sự cảm nhận về độ lâu bền của hiện hữu. Như vậy, Augustin hướng thời gian vào chủ quan tính của con người. Thời gian được giải quyết ở mức độ tâm lí. Đây chính là thời gian tâm lí trong nghệ thuật nói chung và trong bài thơ “Vội vàng” nói riêng.
5. “Vội vàng” là cảm thức thời gian hiện đại của nhà thơ “ông hoàng của tình yêu” - Xuân Diệu. Qua cảm thức thời gian ấy, thi nhân bày tỏ một tình yêu cuộc sống đến độ say mê. Với nhà thơ, cuộc sống là tất cả lạc thú tinh thần và vật chất; với tất cả những gì là thanh cao và trần tục của nó đều phải được tận hưởng cho đến “hơi thở cuối cùng” của đời người. Cá thể trữ tình của nhà thơ khao khát được mãi sống trong một vũ trụ bất biến thực hữu. Đó là một vũ trụ xuân và tình, một thế giới của tình yêu và tuổi trẻ bất diệt; thế gới ấy không bao giờ phai màu nhạt hương, mặc cho thời gian lạnh lùng nghiệt ngã một đi không trở lại. Cái tôi trong thơ là cái tôi - tuổi trẻ - ái tình mãi hằng hữu trong “Xuân không mùa”.
“Vội vàng”, vì vậy là một bài thơ triết lí về thời gian và cách thế ứng xử với thời gian của chủ thể trữ tình trẻ tuổi trong thi ca.
“Vội vàng”, một triết lí thời gian trong thơ: Triết lí thời gian trong “Vội vàng” là thời gian biện chứng, thời gian khách quan vật lí, tồn tại vĩnh viễn và tuyến tính. Đây chính là quan niệm về thời tính của các nhà triết học hiện đại; đặc biệt là Héraclite, nhà triết học cổ đại Hi Lạp.
Héraclite đã hình ảnh hoá thời gian: “Không ai tắm hai lần trên một dòng sông”; bởi “mọi vật đều chảy” (Platon ghi trong Cratyle là: “Tất cả đều lưu chảy, tất cả đều biến động như kiểu một dòng sông”. “Tất cả đều lưu chảy”, tiếng Hi Lạp là Panta rei. Dẫn theo Lê Tôn Nghiêm). Ông còn ví von thời gian như là “một đứa trẻ chơi đùa, mỗi lúc mỗi thay đổi quân cờ. Đó là lối thống trị vạn vật của con nít”. Như vậy, thời gian là thành tố làm nên biến dịch của tất cả sự vật hịên tượng. Nhưng thời gian là một trò đùa của một đứa trẻ vừa liên tục kiến thiết vừa liên tục phá hoại. Thời gian mang trong mình nó hai mặt đối lập; một đàng “nghiêm nghị” như một kẻ thống trị tất định, một đàng “đùa bỡn” như con nít. Đó chính là biện chứng pháp thời gian.
Trong thơ, Xuân Diệu cũng thức nhận dòng trôi tuyến tính thời gian ấy. Ông ví thời gian như là “Nước không vội vàng, Cũng không trễ tràng, Nước trôi vô tình” (Thời gian). Và ông sáng tạo một hình ảnh mới biểu tượng cho khái niệm thời gian. Đó là “Ngọn gió thời gian”. Với ông, “Ngọn gió thời gian” cứ thổi bay tất cả:
“Thong thả chiều vàng thong thả lại
Rồi đi...đêm xám tới dần dần
Cứ thế mà bay cho đến hết
Những ngày, những tháng, những mùa xuân.”
(Giờ tàn)
“Ngọn gió thời gian” không chỉ làm thay đổi khách thể mà còn làm “biến dịch” cả chủ thể:
“Cái bay không đợi cái tôi
Từ tôi phút ấy sang tôi phút này”
(Đi thuyền)
Ở bài thơ “Vội vàng”, nhà thơ nâng thời gian lên thành khái niệm, dùng hiện tượng cảm tính “mùa xuân” để biểu trưng cho “thời gian không đứng đợi” một cái gì và một ai cả trong trời đất này:
“Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua
Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già
Mà xuân hết nghĩa là tôi cũng mất.”
Nhà thơ nhìn vũ trụ, cuộc sống bằng đôi mắt thời gian của cái tôi-tuổi trẻ-tình yêu. Mùa xuân là tuổi trẻ, tình yêu và hạnh phúc trần thế. Nhưng mùa xuân lại là thời gian lưu chuyển nên “tôi cũng mất”.
Nhà thơ cũng nhìn thời gian bằng con mắt dự cảm và biện chứng. Những câu thơ với những từ “đương, còn, sẽ, hết, mất” và “tới , qua, non, già” thể hiện biện chứng pháp thời gian và biện chứng pháp tâm hồn của nhà thơ. Mùa xuân đến chứa mầm xuân qua, mùa xuân non ẩn giấu xuân già. Trong hiện tại có bóng hình tương lai, trong tương lai hiện hữu hạt nhân quá khứ thông qua hiện tại. Để rồi, tất cả chỉ còn là “xuân hết”. Đang sống giữa mùa xuân, nhà thơ đã có một dự cảm phôi pha tàn lụi. Mùa xuân dồi dào sự sống của tuổi trẻ nhưng trong xuân đã có mùa đông, đã có bóng nét huỷ hoại tình yêu - tuổi trẻ - hạnh phúc trần gian. Niềm vui, hạnh phúc ở cõi nhân gian, vì thế cũng tiêu tan như một huyễn mộng.
Nhìn thời gian chảy trôi biện chứng, nên cái tôi trữ tình tuổi trẻ trong thơ cũng rơi vào nỗi ám ảnh thời gian để cảm giác những xung động nội tâm của mình. Nói cách khác, biện chứng thời gian hình thành biện chứng pháp tâm hồn trong bài thơ “Vội vàng” của Xuân Diệu.
Xuân Diệu yêu đời và thiết tha được giao cảm với đời. Thi sĩ yêu đời bằng trái tim có đầy đủ phẩm chất sự sống, bằng tình yêu say đắm, đam mê. Vì thế, chủ thể trữ tình tuổi trẻ trong “Vội vàng” rất sợ mất những gì mà mình yêu thương nhất. Nhà thơ sợ thời gian sẽ lão hoá và biến tuổi trẻ của mình từ “dương vô cùng đến âm vô cùng”. Cái chết, tuổi già, bệnh tật đã trở thành nỗi ám ảnh thường trực trong trí nghĩ của nhà thơ. Ngay từ khi còn “Thanh niên”, nhà thơ đã cảm nhận:
“Già sẽ đến giơ tay xua ánh sáng
Đuổi bướm chim và sợ cả hương hoa”
Và khi đã ngoài bảy mươi, nhà thơ vẫn không dứt khỏi nỗi ám ảnh thời gian ấy. Nhà thơ day dứt, nuối tiếc tuổi trẻ:
“Tôi nhận cái này đã từ lâu
Bây giờ nó tới dẫu hơi mau.”
(Không đề)
Ám ảnh thời gian, nên nhà thơ nén vào trong thơ hai trạng thái cảm xúc như hai mặt đối lập mà thống nhất của một tâm hồn. Đấy là tâm trạng hốt hoảng lo âu của một thanh niên đa cảm. Đấy là tâm trạng bừng bừng phấn khích, rực cháy ngọn lửa yêu đương, ham sống; chợt rơi xuống đáy sâu của nguội lạnh tàn tro. Đấy là một tâm hồn vừa hoà nhã mà cũng rất dễ dàng nóng giận, bức bối.
Biện chứng pháp tâm hồn, trước hết biểu hiện qua giọng thơ. Bài thơ có tính đa thanh trong giọng điệu trữ tình. Tình điệu thơ vừa mãnh liệt cuồng nộ, vừa hoà dịu trong trẻo; vừa say đắm phong tình, vừa chán nản đau thương. Tất cả tạo nên vẻ đẹp của một hồn thơ Xuân Diệu.
Biện chứng pháp tâm hồn, thứ nữa thể hiện qua những biến thái tâm hồn, sự giao thoa tâm trạng của thi sĩ. Tâm hồn nhà thơ như đang hạnh phúc trong tình yêu tuổi trẻ:
“Tháng Giêng ngon như một cặp môi gần”
bỗng rơi vào trạng thái song trùng:
“Tôi sung sướng nhưng vội vàng một nửa”.
Mùa xuân đến, đem sự sống rời rợi non tơ cho vạn vật, nhưng không phải là “Xuân không mùa”. “Xuân không mùa” chỉ có trong mơ ước của thi sĩ trẻ “Lần đầu rung động nỗi thương yêu” (Thơ duyên) muốn mãi “hút mùa dưới đất”, chứ không là hiện thực. Cho nên, chủ thể trữ tình muốn lưu giữ hương màu; nhưng xuân không đứng đợi; hương màu cứ theo thời gian mà nhạt phai, tan biến. Tâm tưởng nhà thơ reo vui giữa buổi xuân thì mà lòng gợn lên bao suy tư, trăn trở và nuối tiếc:
“Lòng tôi rộng nhưng lượng đời cứ chật
Không cho dài thời trẻ của nhân gian.”
Đời người ngắn ngủi. Tuổi xuân lại càng ngắn ngủi hơn. Vui hay buồn của nhà thơ cũng do tuổi trẻ đến và đi, vĩnh viễn hay chốc lát. Triết lí “Ôi nhân sinh là thế ấy, Như bóng đèn, như mây nổi, như gió thổi, như chiêm bao” (Nguyễn Công Trứ) không có gì là mới. Nhưng Xuân Diệu mới là ở sự ngắn ngủi của cái tôi - tuổi trẻ:
“Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn
Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại
Còn trời đất nhưng chẳng còn tôi mãi
Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời .”
Tiếc mùa xuân - tuổi trẻ là nuối tiếc sự sống, nuối tiếc cuộc đời. Nhà thơ phải rất yêu đời, ham sống, ham yêu và khát khao giao cảm với đời mới có nỗi niềm nhân bản ấy. Xuân Diệu đã diễn tả rất sâu, rất hay, rất mãnh liệt và rất thiết tha cảm xúc xa xót của lòng mình bằng âm thanh, màu sắc, hình nét của tạo vật mùa xuân qua thủ pháp nghệ thuật nhân hoá:
“Cơn gió xinh thì thào trong gió biếc,
Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi ?
Chim rộn ràng bỗng dứt tiếng reo thi,
Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa ? ”
Lo sợ xuân và tuổi trẻ mất đi, nên Xuân Diệu sống trong tâm trạng bất an. Nhà thơ khao khát mùa xuân - thời gian ngưng kết vĩnh hằng để cái tôi - tuổi trẻ - tình yêu của mình vĩnh tồn mà thụ hưởng hạnh phúc ngồn ngộn nơi “cõi người ta”. Do vậy, “Vội vàng” cũng là bài thơ chạm đến vĩa tầng thời gian triết học - thời gian hữu thể bất biến. Đây là quan niệm thời gian của Parménide và của Augustine.Theo nhà triết học Augustine, thời gian có ba phạm trù: quá khứ, hiện tại và tương lai. Ông lí giải: cái đang tồn tại là cái bây giờ; vì thế mọi cách đặt vấn đề về dòng chảy thời gian bao giờ cũng mang tính tương đối. Liệu có quá khứ, tương lai không ? Quá khứ là cái không còn, tương lai là cái chưa hiện hữu; vậy thì chỉ có một cái tồn tại là hiện tại; nhưng hiện tại nếu không chuyển thành quá khứ và tương lai thì không còn thời gian mà chỉ còn vĩnh cữu. Như vậy, thời gian không tồn tại đích thực, nên cũng không chia thời gian thành ba phạm trù. Chỉ có hiện tại là thực tồn, thực hữu; còn quá khứ và tương lai không trực tiếp nhìn thấy mà chỉ là hình ảnh của sự vật.
Có lẽ, từ quan niệm thời gian của Parménide và của Augustine, nên trong “Vội vàng”, Xuân Diệu bằng nghệ thuật, bằng tinh thần nhân văn đã tìm cách ngưng đọng, cô đặc dòng chảy thời gian và chuyển hoá thời gian thành không gian:
“Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi.”
Nhà thơ đã nhân danh cái tôi-tuổi trẻ-tình yêu mà khao khát “nhân định thắng thiên”, ước mơ có được quyền uy tối thượng, bắt thời gian ngừng vận động để mình mãi sống trong hạnh phúc. Cái tôi của nhà thơ muốn đoạt quyền tạo hoá, “muốn tắt nắng, muốn buộc gió” để mùa xuân - thời gian bất biến trường tồn. Mùa xuân bất biến nên tuổi trẻ-tình yêu như đắm chìm mê man trong những hương màu, trong bầu khí hoan lạc, phong tình ái ân của tạo vật:
“Của ong bướm này đây tuần tháng mật,
Này đây hoa của đồng nội xanh rì,
Này đây lá của cành tơ phơ phất,
Của yến anh này đây khúc tình si,
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi,
Mỗi buổi sáng thần vui hằng mở cửa.”
Trước Xuân Diệu, thơ Việt Nam chưa có bức hoạ mùa xuân nào ngây ngất, tình tứ như thế. Nhà thơ đã tạo ý lời mới mẻ nhằm tái tạo và tái hiện những âm thanh, hương màu mùa xuân thật nồng nàn, tươi non và tràn trề sức sống. Mùa xuân vĩnh viễn mới có tạo vật tràn đầy mĩ cảm quay cuồng trong khúc điệu tình ái mê li đến vậy.
Với Xuân Diệu, mùa xuân nhưng phải là tháng Giêng, vì tháng Giêng-mùa xuân mới hội đủ những phẩm chất thanh tân biểu trưng cho tuổi trẻ-tình yêu. Chỉ tháng Giêng-mùa xuân mới có thể:
“Tháng Giêng ngon như một cặp môi gần.”
Thời gian toả hương vị thơm ngọt của tình ái đầu đời. Tạo vật ngày xuân cũng vì thế mà say đắm, ngất ngây:
“Tà áo mới cũng say mùi gió nước,
Rặng mi dài xao động ánh dương vui.”
Như thế, bài thơ “Vội vàng” đã nêu được quan niệm về thời gian-triết lí thời gian bất biến, vĩnh hằng. Thực ra, nói đúng hơn, thời gian trong thơ là thời gian tâm lí, một triết lí thời gian mang màu sắc nhân văn của nhà thơ, một hồn thơ tuổi trẻ khát khao giao cảm với đời.
6. Thơ Xuân Diệu là thơ của đời. Hồn thơ ông là một hồn thơ rung động ngây ngất trước thanh sắc trần gian. Vì thế, dù cảm thức tuổi trẻ rất ngắn ngủi như là một lát cắt mỏng tang của một đời người, một sác-na của thời gian vũ trụ; nhà thơ vẫn luôn khao khát níu giữ tuổi trẻ, bất biến hoá tuổi trẻ để sống hạnh phúc, sống no đầy trong tình yêu. Xuân Diệu không thể an nhiên, tự tại, thoát tục như các nhà thơ xưa giữa vòng tuần hoàn của thời gian. Xuân Diệu cũng không đi tìm cái đẹp đã mất, không tìm đến chốn hoang sơ rừng thẳm, cũng không náu mình vào thời gian nguyên thuỷ mà mơ trong mơ, để thơ là một kiến trúc chiêm bao:
“Đi vào mộng những sơn thần yên ngủ,
Em ! Kìa em ! đừng gọi thức hư không ?
Hãy quỳ xuống đọc bài kinh ái mộ,
Hồn ta đây thành tượng giữa vô cùng.”
trong dòng thời gian tuyến tính như Đinh Hùng với “Trời ảo diệu”.
Cái tôi -tuổi trẻ của Xuân Diệu tìm cách hoá giải thời gian tuyến tính, tìm cách ứng xử với triết lí thời gian bằng tư tưởng và phong cách của riêng mình. “Vội vàng” là bài thơ thể hiện tập trung nổi bật lối ứng xử với triết lí thời gian của thi nhân. “Vội vàng” là một hồn thơ thanh xuân muốn quyết thắng cùng thời gian.
Để chiến thắng thời gian, Xuân Diệu đã ngưng kết thời gian lại, nén tối đa sự sống vào một khoảnh khắc thời gian nhỏ nhất. Trong thơ ông, ông từng biến xuân hữu hạn thành xuân vô cùng và vĩnh cửu. Vũ trụ trong góc nhìn của thi sĩ chỉ có một mùa xuân, cuộc đời cũng là một mùa xuân. Một năm, bốn mùa đều là mùa xuân và đời người là cả một mùa xuân xanh:
“Xuân không chỉ là xuân ba tháng
Xuân là khi nắng rạng đến tình cờ
Chim trên cành há mỏ hót ra thơ
Xuân là lúc gió về không định trước.”
Ở “Vội vàng”, nhà thơ cũng thể hiện cách ứng xử thời gian ấy. Nhà thơ lấy cái tôi-tuổi trẻ, lấy chủ tri mà đoạt quyền khách tri, đem chủ thể mà chiến thắng khách thể nhận thức. Nhà thơ muốn tắt nắng, buộc gió để xuân luôn hằng hữu thực tồn. Với nhà thơ, chế ngự được thời gian; bất biến hoá thời gian là làm chủ được “độ phai tàn sắp sửa” của tuổi trẻ-tình yêu. Lúc ấy, tuổi trẻ như “Mùa xuân xanh” (Nguyễn Bính), chứ không là và không phải là “Mùa xuân chín” (Hàn Mặc Tử). Tuổi trẻ mãi là “Tháng Giêng ngon như một cặp môi gần”.
Xuân Diệu tha thiết được sống cùng hiện tại- mùa xuân, nhưng hiện tại tuy thực mà cũng rất mong manh. Vì vậy, sống với hiện tại là phải chưng cất nó, dồn nén nó để:
“Thà một phút huy hoàng rồi chợt tắt
Còn hơn buồn le lói suốt trăm năm.”
(Giục giã)
Nhà thơ rất nỗ lực chuyển thời gian khách quan thành thời gian tâm linh để phi thời gian hoá chính thời gian. Nhưng ông tự nhận thức đó chỉ là ảo tưởng. Bởi vậy, ông thay đổi cách ứng xử với thời gian, dùng “chiến thuật” khác nhằm giành lại tuổi trẻ-tình yêu trong bàn tay khắc nghiệt lạnh lùng của thời gian. Nhà thơ rượt đuổi thời gian bằng tốc độ, nên ta hiểu vì sao bài thơ có tên “Vội vàng”. “Vội vàng” là một hành động thơ, một trạng thái tâm lí, một cách ứng xử với triết lí thời gian. Nhưng “Mau với chứ, vội vàng lên với chứ !” chưa đủ mà cần phải vượt lên đón đầu thời gian nữa:
“Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân”.
Nhà thơ ý thức chỉ có đón đầu thời gian mới có thể sống trong thực tại mùa xuân-tuổi trẻ; mới có thể sống giữa vũ trụ phập phồng hơi thở sự sống, dào dạt nhịp điệu âm thanh và phơi phới sắc độ gam màu. Trước Xuân Diệu không lâu, Thế Lữ đã từng viết bài thơ “Hoài xuân” mà khổ thơ đầu lại tả ngày hạ:
“Tiếng ve ran trong bóng cây râm mát,
Giọng chim quyên ca ánh sáng mặt trời,
Gió nồng reo trên hồn sen rào rạt,
Mùa xuân còn, hết ? Khách đa tình ơi !”
Xuân Diệu trong điệu xuân ấm áp hoan ca đã nơm nớp riêng mang nỗi sầu thân phận; nhưng không bi lụy mà đầy lãng mạn tích cực, hướng đến tương lai để đón đợi hiện tại hầu được sống muôn đời cùng hiện thực tuổi trẻ- tình yêu. Và nếu nhà thơ có ngậm ngùi, tiếc nuối thì cũng chỉ bùi ngùi tiếc nhớ tuổi trẻ không dài, hạnh phúc-tình yêu trên mặt đất bụi lầm này không bền mà thôi.
Là một nhà thơ không bao giờ chản nản sự sống và luôn khao khát sống huy hoàng, chói lọi, sống là mình; Xuân Diệu cảm nhận: Nếu bằng tốc độ mà vẫn không chiến thắng thời gian thì phải bằng cường độ sống để tồn tại, để mùa sẽ không “ngã chiều hôm”. Trong “Thương vay - Trường ca”, nhà thơ viết: “Thời gian chỉ là sự cử động. Nếu tôi đứng, nếu máu tôi ngừng...thời gian của tôi sẽ không còn nữa.” Con người đứng lại để mặc thời gian trôi cũng có nghĩa là đã chết hay “chết trong khi đang sống” (Nam Cao). Xuân Diệu không chấp nhận lối “sống mòn”, ông háo hứt “Vội vàng” sống và yêu:
"Mau đi thôi ! Mùa chưa ngã chiều hôm,
Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn;
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn,
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu.
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều,
Và non nước và cây và cỏ rạng,
Cho chuếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng,
Cho no nê thanh sắc của thời tươi,
Hỡi xuân hồng ta muốn cắn vào ngươi !”.
Đoạn thơ đã bộc lộ trọn vẹn tư thế và tâm thế thường trực của chủ thể trữ tình. Đấy là một tư thế muốn riết, muốn ôm, muốn cắn, muốn thâu. Đấy là tâm thế khao khát được say, được chuếnh choáng, được no nê trong yến tiệc buổi xuân hồng. Tâm thế và tư thế khát sống ham yêu trong hiện tồn của tuổi trẻ đã làm sống lại phẩm chất thanh tân của những câu thơ miêu tả mùa xuân ở phần đầu bài thơ. Nhà thơ miên man hoà nhập, rung cảm và “dấn thân” vào cuộc sống yêu đương, nên tạo vật mùa xuân như sáng bừng rạng rỡ vĩnh viễn “thanh sắc một thời tươi”.
Khi bàn về con người, nhà triết học Đức, Feuerbach viết: “Trong ý chí, tư duy và tình cảm hàm chứa bản chất tối cao tuyệt đối của con người... Con người sống để nhận thức, để yêu và để ham muốn.” Xuân Diệu trong bài thơ “Vội vàng” là một con người như thế chăng ? Nhà thơ tự nhận thức sự nghiệt ngã của thời gian nên đã dậy lên lòng ham hố sống mãi với tình yêu-tuổi trẻ và đã chọn lựa một trong những phương thức sống, đó là tình yêu. Tình yêu trong hồn thơ Xuân Diệu luôn sôi nổi, thiết tha, rạo rực; có yếu tố thanh sắc trần tục, nặng tính chất hưởng thụ. Với Xuân Diệu, tình yêu là cường độ sống và là sự chiến thắng thời gian chảy trôi.
Cũng có thể ai đó chưa thật sự hài lòng về cách đặt vấn đề và cách thể hiện tình yêu của Xuân Diệu trong “Vội vàng”. Nhưng bình tâm suy xét sẽ đồng điệu, cảm thông với nhà thơ. Xuân Diệu là nhà thơ của đời. “Lầu thơ ông xây dựng chính trên mặt đất trần gian này” (Thế Lữ). Hơn nữa, ông lại là một nhà thơ trẻ, làm sao ông có thể dễ dàng chấp nhận một tình yêu tinh thần, thuần ý niệm, thậm chí ý niệm tuyệt đối như chữ nghĩa của Platon. Tình yêu đích thực và trần thế phải là tình yêu tâm hồn hài hoà với nhục thể. Và chỉ có tình yêu ấy mới sống, mới đủ sức mạnh chiến thắng thời gian.
Và cũng có thể có ai đó cho rằng, “Vội vàng” cổ vũ cho chủ nghĩa hiện sinh, triết lí hiện sinh. Ý kiến ấy không phải không có cái lí của nó. Phải chăng cái lí đó là: cái tôi tuổi trẻ trong thơ sống gấp gáp, sống vội vàng, sống buông thả và trần tục những “muốn” và “muốn” ? Phải chăng cái lí ấy cũng là: quan niệm nghệ thuật về con người trong bài thơ “Vội vàng” phảng phất quan niệm con người nhân vị của triết học hiện sinh ? Con người là một hiện thể, là hiện sinh hằng ngày, là hữu thể đó. Con người cảm nghĩ và tư duy bằng thân xác và con người phải trở thành một nhân vị – “Con người nhận thức về mình, tự tạo cho mình, làm cho mình trở thành mình. Đó là tính chủ thể con người.” (Lịch sử triết học – Bùi Thanh Quất chủ biên, Nxb Giáo Dục, HCM-2001, tr. 345-346).
Đúng là trong “Vội vàng” nói chung và phần thơ đã phân tích nói riêng quả có hơi hướng hiện sinh. Nhưng hiện sinh của Xuân Diệu trong bài thơ không là hiện sinh của Nietzche, J.P. Sartre, Ionesco,... Hiện sinh của Xuân Diệu chỉ là tư tưởng nhân văn, là một niềm khao khát được sống và thụ hưởng hạnh phúc tuổi trẻ-tình yêu giữa cõi nhân sinh biến thường này. Có thể Xuân Diệu chỉ có thơ đòi hỏi hưởng thụ mà không có thơ dâng là một hạn chế. Nhưng xét đến cùng, nếu Xuân Diệu trong “Vội vàng” có hiện sinh đi nữa thì đó là một chủ nghĩa hiện sinh thuần khiết hay nói như R. Harper (triết gia Mỹ), chủ nghĩa hiện sinh của Xuân Diệu là một chủ nghĩa hiện sinh lạc quan.
Phản ứng với thời gian của Xuân Diệu còn có một phương thức khác, đó thơ ca. Với nhà thơ, thời gian không chỉ là cảm xúc, cảm hứng sáng tạo, không chỉ là triết lí thời gian trong thơ; mà còn là một kiến trúc nghệ thuật thơ nữa.
Sinh thời, Xuân Diệu luôn bị sức nặng vô hình day dứt tâm trí ông. Ông rất sợ tuổi già và cái chết. Để chống chọi lại cái chết, sự hữu hạn của tuổi trẻ, của đời người; ông quan niệm: “Cái chết không diệt được cái gì không phải là vật chất. Mà cái đầu tiên không phải là vật chất chẳng phải là thơ sao ? Nhà thơ chỉ cần thả một chiếc lá thơ trên dòng thời gian, thì sẽ bất tử. Thơ có ma lực siêu việt thời gian”. Như vậy, sáng tạo thi ca theo nhà thơ đồng nghĩa với một phương cách kì diệu để trường sinh bất lão. Tất nhiên, thơ có sức mạnh diệu tuyệt ấy, phải là thơ cá thể; thơ thể hiện tư tưởng và phong cách nghệ thuật độc đáo của thi nhân. “Vội vàng” là một bài thơ như thế.
Là nhà thơ lấy tình yêu chọi lại thời gian, nên ông luôn nhìn tạo vật bằng lăng kính phong tình ái ân. Trong mùa xuân vĩnh cửu của nhà thơ có yến anh hát khúc tình si, có ong bướm đang hạnh phúc trong tuần tháng trăng mật. Và ông đã lấy cái đẹp của giai nhân làm chuẩn mực cho thế giới tự nhiên, cho sự vật hiện tượng. Ánh sáng trong mắt ông thật duyên dáng khi “chớp hàng mi” và thời gian thì:
Đó là vẻ đẹp của bài thơ “Vội vàng” - một bài thơ đậm sắc màu triết lí thời gian và thể hiện lối ứng xử thời gian rất độc đáo của nhà thơ Xuân Diệu.
2. “Vội vàng” là một bài thơ hay. Thơ hay là thơ có tứ thơ đẹp và lạ; có kiến trúc nghệ thuật ngôn từ độc đáo. Thơ hay là thơ bàng bạc, lan toả một chất thơ nồng nàn làm xao xuyến say đắm lòng người. Nhưng thơ hay cũng là thơ chạm đến sự vĩnh hằng của nỗi niềm nhân bản, nhân văn.
Như vậy, một tuyệt phẩm thi ca phải là một thế giới nghệ thuật thấm đẫm chất “triết văn”. Trong thơ, nhà thơ vừa tạo được một lớp trầm tích triết học, vừa làm nên một chất triết lí bàng bạc trong tín hiệu, trong ngôn từ nghệ thuật về vũ trụ, về con người và về cuộc đời. Tất nhiên, “triết văn” không phải là triết luận trong thơ. Bởi thơ không nói lí, không chấp nhận sống chung với chủ nghĩa duy lí, tư duy lí luận. Thơ là ấn tượng, là xúc cảm. Thơ thiên về duy cảm của nhà thơ trước con người, cuộc đời và trời đất. Chính chất “triết văn” trong thơ là một trong những yếu tố tạo nên sức sống lâu bền của thơ. “Triết văn” là linh hồn, là cốt tuỷ của thi ca; giứp thơ nói lên tiếng nói chân lí nghệ thuật và chân lí cuộc đời; nói lên sự thật bên trong tâm hồn con người để thơ đi từ chân trời của một người đến chân trời của mọi người; để thơ có được một sự đồng cảm mãnh liệt, sâu sắc muôn đời.
Thơ chỉ có thể đạt được hiệu quả thẩm mĩ ấy, khi thơ là tiếng nói nghệ thuật về con người. Nói cách khác, thơ là tâm hồn con người - con người luôn bị đặt trong quan hệ ngang - dọc của vũ trụ (Cửu vũ), thời gian và không gian nghệ thuật. Hình tượng thi ca, cái tôi trữ tình trong thơ bao giờ cũng hiện hữu, đi về giữa hai miền không - thời gian ấy như Huy Cận từng nói; bài thơ đẹp là bài thơ luôn có sự rung động về không gian và thời gian. Phải chăng không-thời gian thơ đó là một nét “triết văn” làm đẹp, làm lắng đọng thi tứ và lan toả hình tượng nghệ thuật thơ.
Từ quan niệm về mối quan hệ giữa triết học và văn chương nêu trên, đi vào thế giới thơ Xuân Diệu, người đọc luôn bắt gặp cái tôi trữ tình cuả người thơ rưng rưng, băn khoăn, cuống quýt trong dòng trôi thời gian. Nhà thơ không muốn sống ngoi ngóp trong thời gian khách quan mà muốn vượt lên chiến thắng thời gian; bắt thời gian vật lí ngừng lại để vũ trụ này mãi mãi đầy tràn âm sắc, hương màu mùa xuân, tình yêu và tuổi trẻ. Nhà thơ mơ ước thời gian mãi bất biến, mãi cô đặc để mình được sống mạnh mẽ, đích thực giữa cõi thế. Nhưng tất cả chỉ là một giấc mơ đẹp mà không bền. Cho nên, từ triết lí thời gian, nhà thơ chọn một lối ứng xử thời gian tích cực để không còn bị ám ảnh của thời gian nữa.
Vì vậy, thơ Xuân Diệu trước Cách mạng tháng Tám luôn có bóng dáng của thời gian. Nói như Đỗ Lai Thuý, trong “Con mắt thơ”: “Thơ thơ là cách thức lấy nghệ thuật để vĩnh cửu hoá thời gian. “Gửi hương cho gió” là đem tâm hồn mình mà giao cảm với đời, mượn tình yêu để chiến thắng thời gian. Đặc biệt, trong “Thơ thơ”, bài thơ “Vội vàng” in đậm triết lí thời gian, lối ứng xử thời gian của Xuân Diệu”.
Như vậy, “Vội vàng” là bài thơ vừa có vẻ đẹp của thời tính trong triết học vừa có sự độc đáo đầy sáng tạo về thời gian nghệ thuật trong thơ Việt Nam hiện đại. Tìm hiểu thơ Xuân Diệu nói chung và bài thơ “Vội vàng” nói riêng, không thể không cảm thụ và phân tích thời gian triết lí và cách thế ứng xử với triết lí thời gian của nhà thơ. Tìm hiểu “Vội vàng”, chính là khám phá vấn đề “Từ thời tính triết học đến thời gian thơ “Vội vàng” của Xuân Diệu.
3. Trong lịch sử triết học, từ cổ đại đến hiện đại, từ Đông sang Tây, các triết gia khi bàn về bản nguyên thế giới, họ đều tìm cách lí giải hay khẳng định bản chất của thời tính trong học thuyết triết học của mình.
Ngay từ thời cổ đại, triết gia Ancimandre, thuộc trường phái Milet của triết học Hi Lạp đã khẳng định “thời gian là vô tận, là bản nguyên của sự vật”. Thời gian theo quan niệm của ông là vô thuỷ vô chung, là dòng chảy một chiều. Nhà triết học Aristote (384 - 322 TCN), người thầy của nhân loại thì cho rằng: Thời gian không liên kết với các vật thể. Theo ông, thời gian liên kết với vận động, nhưng thời gian không phải là vận động. Do vậy, thời gian không thể tồn tại nếu thiếu vận động, vì số lượng vận động xét trong quan hệ quá khứ và tương lai là sự chảy qua. Thời gian vô hạn, nếu như thế tất cả các quá trình đơn nhất đều bị huỷ hoại và độ dài lâu của chúng được đánh dấu bằng thời gian thì thế giới thống nhất và vĩnh cửu phải có độ dài lâu vô hạn. Thời gian không phải là vận động vì vận động có chậm có nhanh, còn thời gian ở đâu, lúc nào cũng vậy. Từ đó, Aristote kết luận: Thời gian là thước đo của vận động. Triết gia Parménide (Trường phái Elée) quan niệm thời gian là hữu thể bất biến.
Các nhà triết học hiện đại như Feuerbach, Hégel, Mark - Engel đều quan niệm thời gian là vô tận, không có khởi đầu và cũng không có kết thúc. Chẳng hạn, Feuerbach, nhà triết học cổ điển Đức, thế kỉ XIX cho rằng: Giới tự nhiên là vĩnh hằng, chỉ có những sự vật hiện tượng là có bắt đầu, có kết thúc trong thời gian; còn giới tự nhiên là vô tận trong không gian và thời gian.
riết học Phật giáo cũng quan niệm: Thời gian là vô thuỷ vô chung. Thời gian gồm tam kiếp: Đại kiếp, trung kiếp và tiểu kiếp. Trong mỗi tiểu kiếp có hàng chục triệu kiếp khác nhau. Thời gian trùng trùng duyên khởi, cho nên không có cái tôi.
Nhìn chung, quan niệm thời tính trong triết học có thể quy về các nét lớn như sau: Thời gian tuyến tính, thời gian phi tuyến tính, thời gian luân hồi và thời gian bất biến.
4. Những quan niệm triết học về thời gian tạo nên thời gian nghệ thuật trong bài thơ “Vội vàng” của Xuân Diệu:
Thời gian nghệ thuật trong bài thơ “Vội vàng” không chệch vượt ra ngoài lằn ranh của thời tính trong triết học đã nêu trên. Nhưng nếu tiếp nhận một cách cụ thể thế giới nghệ thuật trong tác phẩm, người đọc thức nhận thời gian trong bài thơ là thời gian tuyến tính, “mũi tên thời gian” (Hawpkin); thời gian biện chứng và thời gian bất biến thực tồn.
Trước hết, thời gian tuyến tính một đi không trở lại nhưng biện chứng, đó là thời gian triết học của Héraclite. Nhà triết học, theo đánh giá của Lênin, là người đầu tiên khai sinh phép biện chứng cho rằng: “Mọi thứ đều chảy”, “không ai có thể tắm hai lần trong một dòng sông”. Thời gian biến dịch, thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập. Thời gian là trường cửu và trường cửu lại chỉ xuất hiện trong thời gian. Con người không ai vượt ra khỏi biên giới của thời gian, đó là căn nguyên của phép biện chứng.
Sau hết là quan niệm thời tính của triết gia thời Trung cổ Augustin. Là nhà triết học tôn giáo, kinh viện; ông cho rằng thời gian là có khởi đầu do Chúa tạo ra. Ông quan niệm thời tính như là một phạm trù để lí giải đời sống tâm linh của con người thông qua việc miêu tả tính chất mâu thuẫn của sự hiện hữu con người trên thế gian này. Theo ông thời gian không tồn tại đích thực mà chỉ là hình ảnh tồn tại của sự vật, nên không thể phân chia thời gian thành quá khứ, hiện tại và tương lai. Diễn biến thời gian là sự chuyển tiếp tương lại thành hiện tại, hiện tại thành quá khứ. Như vậy, không có qúa khứ, tương lai thì không có hiện tại. Thời gian được đo bằng quá trình sinh-lão-bệnh-tử của con người và thể hiện ở sự cảm nhận về độ lâu bền của hiện hữu. Như vậy, Augustin hướng thời gian vào chủ quan tính của con người. Thời gian được giải quyết ở mức độ tâm lí. Đây chính là thời gian tâm lí trong nghệ thuật nói chung và trong bài thơ “Vội vàng” nói riêng.
5. “Vội vàng” là cảm thức thời gian hiện đại của nhà thơ “ông hoàng của tình yêu” - Xuân Diệu. Qua cảm thức thời gian ấy, thi nhân bày tỏ một tình yêu cuộc sống đến độ say mê. Với nhà thơ, cuộc sống là tất cả lạc thú tinh thần và vật chất; với tất cả những gì là thanh cao và trần tục của nó đều phải được tận hưởng cho đến “hơi thở cuối cùng” của đời người. Cá thể trữ tình của nhà thơ khao khát được mãi sống trong một vũ trụ bất biến thực hữu. Đó là một vũ trụ xuân và tình, một thế giới của tình yêu và tuổi trẻ bất diệt; thế gới ấy không bao giờ phai màu nhạt hương, mặc cho thời gian lạnh lùng nghiệt ngã một đi không trở lại. Cái tôi trong thơ là cái tôi - tuổi trẻ - ái tình mãi hằng hữu trong “Xuân không mùa”.
“Vội vàng”, vì vậy là một bài thơ triết lí về thời gian và cách thế ứng xử với thời gian của chủ thể trữ tình trẻ tuổi trong thi ca.
“Vội vàng”, một triết lí thời gian trong thơ: Triết lí thời gian trong “Vội vàng” là thời gian biện chứng, thời gian khách quan vật lí, tồn tại vĩnh viễn và tuyến tính. Đây chính là quan niệm về thời tính của các nhà triết học hiện đại; đặc biệt là Héraclite, nhà triết học cổ đại Hi Lạp.
Héraclite đã hình ảnh hoá thời gian: “Không ai tắm hai lần trên một dòng sông”; bởi “mọi vật đều chảy” (Platon ghi trong Cratyle là: “Tất cả đều lưu chảy, tất cả đều biến động như kiểu một dòng sông”. “Tất cả đều lưu chảy”, tiếng Hi Lạp là Panta rei. Dẫn theo Lê Tôn Nghiêm). Ông còn ví von thời gian như là “một đứa trẻ chơi đùa, mỗi lúc mỗi thay đổi quân cờ. Đó là lối thống trị vạn vật của con nít”. Như vậy, thời gian là thành tố làm nên biến dịch của tất cả sự vật hịên tượng. Nhưng thời gian là một trò đùa của một đứa trẻ vừa liên tục kiến thiết vừa liên tục phá hoại. Thời gian mang trong mình nó hai mặt đối lập; một đàng “nghiêm nghị” như một kẻ thống trị tất định, một đàng “đùa bỡn” như con nít. Đó chính là biện chứng pháp thời gian.
Trong thơ, Xuân Diệu cũng thức nhận dòng trôi tuyến tính thời gian ấy. Ông ví thời gian như là “Nước không vội vàng, Cũng không trễ tràng, Nước trôi vô tình” (Thời gian). Và ông sáng tạo một hình ảnh mới biểu tượng cho khái niệm thời gian. Đó là “Ngọn gió thời gian”. Với ông, “Ngọn gió thời gian” cứ thổi bay tất cả:
“Thong thả chiều vàng thong thả lại
Rồi đi...đêm xám tới dần dần
Cứ thế mà bay cho đến hết
Những ngày, những tháng, những mùa xuân.”
(Giờ tàn)
“Ngọn gió thời gian” không chỉ làm thay đổi khách thể mà còn làm “biến dịch” cả chủ thể:
“Cái bay không đợi cái tôi
Từ tôi phút ấy sang tôi phút này”
(Đi thuyền)
Ở bài thơ “Vội vàng”, nhà thơ nâng thời gian lên thành khái niệm, dùng hiện tượng cảm tính “mùa xuân” để biểu trưng cho “thời gian không đứng đợi” một cái gì và một ai cả trong trời đất này:
“Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua
Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già
Mà xuân hết nghĩa là tôi cũng mất.”
Nhà thơ nhìn vũ trụ, cuộc sống bằng đôi mắt thời gian của cái tôi-tuổi trẻ-tình yêu. Mùa xuân là tuổi trẻ, tình yêu và hạnh phúc trần thế. Nhưng mùa xuân lại là thời gian lưu chuyển nên “tôi cũng mất”.
Nhà thơ cũng nhìn thời gian bằng con mắt dự cảm và biện chứng. Những câu thơ với những từ “đương, còn, sẽ, hết, mất” và “tới , qua, non, già” thể hiện biện chứng pháp thời gian và biện chứng pháp tâm hồn của nhà thơ. Mùa xuân đến chứa mầm xuân qua, mùa xuân non ẩn giấu xuân già. Trong hiện tại có bóng hình tương lai, trong tương lai hiện hữu hạt nhân quá khứ thông qua hiện tại. Để rồi, tất cả chỉ còn là “xuân hết”. Đang sống giữa mùa xuân, nhà thơ đã có một dự cảm phôi pha tàn lụi. Mùa xuân dồi dào sự sống của tuổi trẻ nhưng trong xuân đã có mùa đông, đã có bóng nét huỷ hoại tình yêu - tuổi trẻ - hạnh phúc trần gian. Niềm vui, hạnh phúc ở cõi nhân gian, vì thế cũng tiêu tan như một huyễn mộng.
Nhìn thời gian chảy trôi biện chứng, nên cái tôi trữ tình tuổi trẻ trong thơ cũng rơi vào nỗi ám ảnh thời gian để cảm giác những xung động nội tâm của mình. Nói cách khác, biện chứng thời gian hình thành biện chứng pháp tâm hồn trong bài thơ “Vội vàng” của Xuân Diệu.
Xuân Diệu yêu đời và thiết tha được giao cảm với đời. Thi sĩ yêu đời bằng trái tim có đầy đủ phẩm chất sự sống, bằng tình yêu say đắm, đam mê. Vì thế, chủ thể trữ tình tuổi trẻ trong “Vội vàng” rất sợ mất những gì mà mình yêu thương nhất. Nhà thơ sợ thời gian sẽ lão hoá và biến tuổi trẻ của mình từ “dương vô cùng đến âm vô cùng”. Cái chết, tuổi già, bệnh tật đã trở thành nỗi ám ảnh thường trực trong trí nghĩ của nhà thơ. Ngay từ khi còn “Thanh niên”, nhà thơ đã cảm nhận:
“Già sẽ đến giơ tay xua ánh sáng
Đuổi bướm chim và sợ cả hương hoa”
Và khi đã ngoài bảy mươi, nhà thơ vẫn không dứt khỏi nỗi ám ảnh thời gian ấy. Nhà thơ day dứt, nuối tiếc tuổi trẻ:
“Tôi nhận cái này đã từ lâu
Bây giờ nó tới dẫu hơi mau.”
(Không đề)
Ám ảnh thời gian, nên nhà thơ nén vào trong thơ hai trạng thái cảm xúc như hai mặt đối lập mà thống nhất của một tâm hồn. Đấy là tâm trạng hốt hoảng lo âu của một thanh niên đa cảm. Đấy là tâm trạng bừng bừng phấn khích, rực cháy ngọn lửa yêu đương, ham sống; chợt rơi xuống đáy sâu của nguội lạnh tàn tro. Đấy là một tâm hồn vừa hoà nhã mà cũng rất dễ dàng nóng giận, bức bối.
Biện chứng pháp tâm hồn, trước hết biểu hiện qua giọng thơ. Bài thơ có tính đa thanh trong giọng điệu trữ tình. Tình điệu thơ vừa mãnh liệt cuồng nộ, vừa hoà dịu trong trẻo; vừa say đắm phong tình, vừa chán nản đau thương. Tất cả tạo nên vẻ đẹp của một hồn thơ Xuân Diệu.
Biện chứng pháp tâm hồn, thứ nữa thể hiện qua những biến thái tâm hồn, sự giao thoa tâm trạng của thi sĩ. Tâm hồn nhà thơ như đang hạnh phúc trong tình yêu tuổi trẻ:
“Tháng Giêng ngon như một cặp môi gần”
bỗng rơi vào trạng thái song trùng:
“Tôi sung sướng nhưng vội vàng một nửa”.
Mùa xuân đến, đem sự sống rời rợi non tơ cho vạn vật, nhưng không phải là “Xuân không mùa”. “Xuân không mùa” chỉ có trong mơ ước của thi sĩ trẻ “Lần đầu rung động nỗi thương yêu” (Thơ duyên) muốn mãi “hút mùa dưới đất”, chứ không là hiện thực. Cho nên, chủ thể trữ tình muốn lưu giữ hương màu; nhưng xuân không đứng đợi; hương màu cứ theo thời gian mà nhạt phai, tan biến. Tâm tưởng nhà thơ reo vui giữa buổi xuân thì mà lòng gợn lên bao suy tư, trăn trở và nuối tiếc:
“Lòng tôi rộng nhưng lượng đời cứ chật
Không cho dài thời trẻ của nhân gian.”
Đời người ngắn ngủi. Tuổi xuân lại càng ngắn ngủi hơn. Vui hay buồn của nhà thơ cũng do tuổi trẻ đến và đi, vĩnh viễn hay chốc lát. Triết lí “Ôi nhân sinh là thế ấy, Như bóng đèn, như mây nổi, như gió thổi, như chiêm bao” (Nguyễn Công Trứ) không có gì là mới. Nhưng Xuân Diệu mới là ở sự ngắn ngủi của cái tôi - tuổi trẻ:
“Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn
Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại
Còn trời đất nhưng chẳng còn tôi mãi
Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời .”
Tiếc mùa xuân - tuổi trẻ là nuối tiếc sự sống, nuối tiếc cuộc đời. Nhà thơ phải rất yêu đời, ham sống, ham yêu và khát khao giao cảm với đời mới có nỗi niềm nhân bản ấy. Xuân Diệu đã diễn tả rất sâu, rất hay, rất mãnh liệt và rất thiết tha cảm xúc xa xót của lòng mình bằng âm thanh, màu sắc, hình nét của tạo vật mùa xuân qua thủ pháp nghệ thuật nhân hoá:
“Cơn gió xinh thì thào trong gió biếc,
Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi ?
Chim rộn ràng bỗng dứt tiếng reo thi,
Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa ? ”
Lo sợ xuân và tuổi trẻ mất đi, nên Xuân Diệu sống trong tâm trạng bất an. Nhà thơ khao khát mùa xuân - thời gian ngưng kết vĩnh hằng để cái tôi - tuổi trẻ - tình yêu của mình vĩnh tồn mà thụ hưởng hạnh phúc ngồn ngộn nơi “cõi người ta”. Do vậy, “Vội vàng” cũng là bài thơ chạm đến vĩa tầng thời gian triết học - thời gian hữu thể bất biến. Đây là quan niệm thời gian của Parménide và của Augustine.Theo nhà triết học Augustine, thời gian có ba phạm trù: quá khứ, hiện tại và tương lai. Ông lí giải: cái đang tồn tại là cái bây giờ; vì thế mọi cách đặt vấn đề về dòng chảy thời gian bao giờ cũng mang tính tương đối. Liệu có quá khứ, tương lai không ? Quá khứ là cái không còn, tương lai là cái chưa hiện hữu; vậy thì chỉ có một cái tồn tại là hiện tại; nhưng hiện tại nếu không chuyển thành quá khứ và tương lai thì không còn thời gian mà chỉ còn vĩnh cữu. Như vậy, thời gian không tồn tại đích thực, nên cũng không chia thời gian thành ba phạm trù. Chỉ có hiện tại là thực tồn, thực hữu; còn quá khứ và tương lai không trực tiếp nhìn thấy mà chỉ là hình ảnh của sự vật.
Có lẽ, từ quan niệm thời gian của Parménide và của Augustine, nên trong “Vội vàng”, Xuân Diệu bằng nghệ thuật, bằng tinh thần nhân văn đã tìm cách ngưng đọng, cô đặc dòng chảy thời gian và chuyển hoá thời gian thành không gian:
“Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi.”
Nhà thơ đã nhân danh cái tôi-tuổi trẻ-tình yêu mà khao khát “nhân định thắng thiên”, ước mơ có được quyền uy tối thượng, bắt thời gian ngừng vận động để mình mãi sống trong hạnh phúc. Cái tôi của nhà thơ muốn đoạt quyền tạo hoá, “muốn tắt nắng, muốn buộc gió” để mùa xuân - thời gian bất biến trường tồn. Mùa xuân bất biến nên tuổi trẻ-tình yêu như đắm chìm mê man trong những hương màu, trong bầu khí hoan lạc, phong tình ái ân của tạo vật:
“Của ong bướm này đây tuần tháng mật,
Này đây hoa của đồng nội xanh rì,
Này đây lá của cành tơ phơ phất,
Của yến anh này đây khúc tình si,
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi,
Mỗi buổi sáng thần vui hằng mở cửa.”
Trước Xuân Diệu, thơ Việt Nam chưa có bức hoạ mùa xuân nào ngây ngất, tình tứ như thế. Nhà thơ đã tạo ý lời mới mẻ nhằm tái tạo và tái hiện những âm thanh, hương màu mùa xuân thật nồng nàn, tươi non và tràn trề sức sống. Mùa xuân vĩnh viễn mới có tạo vật tràn đầy mĩ cảm quay cuồng trong khúc điệu tình ái mê li đến vậy.
Với Xuân Diệu, mùa xuân nhưng phải là tháng Giêng, vì tháng Giêng-mùa xuân mới hội đủ những phẩm chất thanh tân biểu trưng cho tuổi trẻ-tình yêu. Chỉ tháng Giêng-mùa xuân mới có thể:
“Tháng Giêng ngon như một cặp môi gần.”
Thời gian toả hương vị thơm ngọt của tình ái đầu đời. Tạo vật ngày xuân cũng vì thế mà say đắm, ngất ngây:
“Tà áo mới cũng say mùi gió nước,
Rặng mi dài xao động ánh dương vui.”
Như thế, bài thơ “Vội vàng” đã nêu được quan niệm về thời gian-triết lí thời gian bất biến, vĩnh hằng. Thực ra, nói đúng hơn, thời gian trong thơ là thời gian tâm lí, một triết lí thời gian mang màu sắc nhân văn của nhà thơ, một hồn thơ tuổi trẻ khát khao giao cảm với đời.
6. Thơ Xuân Diệu là thơ của đời. Hồn thơ ông là một hồn thơ rung động ngây ngất trước thanh sắc trần gian. Vì thế, dù cảm thức tuổi trẻ rất ngắn ngủi như là một lát cắt mỏng tang của một đời người, một sác-na của thời gian vũ trụ; nhà thơ vẫn luôn khao khát níu giữ tuổi trẻ, bất biến hoá tuổi trẻ để sống hạnh phúc, sống no đầy trong tình yêu. Xuân Diệu không thể an nhiên, tự tại, thoát tục như các nhà thơ xưa giữa vòng tuần hoàn của thời gian. Xuân Diệu cũng không đi tìm cái đẹp đã mất, không tìm đến chốn hoang sơ rừng thẳm, cũng không náu mình vào thời gian nguyên thuỷ mà mơ trong mơ, để thơ là một kiến trúc chiêm bao:
“Đi vào mộng những sơn thần yên ngủ,
Em ! Kìa em ! đừng gọi thức hư không ?
Hãy quỳ xuống đọc bài kinh ái mộ,
Hồn ta đây thành tượng giữa vô cùng.”
trong dòng thời gian tuyến tính như Đinh Hùng với “Trời ảo diệu”.
Cái tôi -tuổi trẻ của Xuân Diệu tìm cách hoá giải thời gian tuyến tính, tìm cách ứng xử với triết lí thời gian bằng tư tưởng và phong cách của riêng mình. “Vội vàng” là bài thơ thể hiện tập trung nổi bật lối ứng xử với triết lí thời gian của thi nhân. “Vội vàng” là một hồn thơ thanh xuân muốn quyết thắng cùng thời gian.
Để chiến thắng thời gian, Xuân Diệu đã ngưng kết thời gian lại, nén tối đa sự sống vào một khoảnh khắc thời gian nhỏ nhất. Trong thơ ông, ông từng biến xuân hữu hạn thành xuân vô cùng và vĩnh cửu. Vũ trụ trong góc nhìn của thi sĩ chỉ có một mùa xuân, cuộc đời cũng là một mùa xuân. Một năm, bốn mùa đều là mùa xuân và đời người là cả một mùa xuân xanh:
“Xuân không chỉ là xuân ba tháng
Xuân là khi nắng rạng đến tình cờ
Chim trên cành há mỏ hót ra thơ
Xuân là lúc gió về không định trước.”
Ở “Vội vàng”, nhà thơ cũng thể hiện cách ứng xử thời gian ấy. Nhà thơ lấy cái tôi-tuổi trẻ, lấy chủ tri mà đoạt quyền khách tri, đem chủ thể mà chiến thắng khách thể nhận thức. Nhà thơ muốn tắt nắng, buộc gió để xuân luôn hằng hữu thực tồn. Với nhà thơ, chế ngự được thời gian; bất biến hoá thời gian là làm chủ được “độ phai tàn sắp sửa” của tuổi trẻ-tình yêu. Lúc ấy, tuổi trẻ như “Mùa xuân xanh” (Nguyễn Bính), chứ không là và không phải là “Mùa xuân chín” (Hàn Mặc Tử). Tuổi trẻ mãi là “Tháng Giêng ngon như một cặp môi gần”.
Xuân Diệu tha thiết được sống cùng hiện tại- mùa xuân, nhưng hiện tại tuy thực mà cũng rất mong manh. Vì vậy, sống với hiện tại là phải chưng cất nó, dồn nén nó để:
“Thà một phút huy hoàng rồi chợt tắt
Còn hơn buồn le lói suốt trăm năm.”
(Giục giã)
Nhà thơ rất nỗ lực chuyển thời gian khách quan thành thời gian tâm linh để phi thời gian hoá chính thời gian. Nhưng ông tự nhận thức đó chỉ là ảo tưởng. Bởi vậy, ông thay đổi cách ứng xử với thời gian, dùng “chiến thuật” khác nhằm giành lại tuổi trẻ-tình yêu trong bàn tay khắc nghiệt lạnh lùng của thời gian. Nhà thơ rượt đuổi thời gian bằng tốc độ, nên ta hiểu vì sao bài thơ có tên “Vội vàng”. “Vội vàng” là một hành động thơ, một trạng thái tâm lí, một cách ứng xử với triết lí thời gian. Nhưng “Mau với chứ, vội vàng lên với chứ !” chưa đủ mà cần phải vượt lên đón đầu thời gian nữa:
“Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân”.
Nhà thơ ý thức chỉ có đón đầu thời gian mới có thể sống trong thực tại mùa xuân-tuổi trẻ; mới có thể sống giữa vũ trụ phập phồng hơi thở sự sống, dào dạt nhịp điệu âm thanh và phơi phới sắc độ gam màu. Trước Xuân Diệu không lâu, Thế Lữ đã từng viết bài thơ “Hoài xuân” mà khổ thơ đầu lại tả ngày hạ:
“Tiếng ve ran trong bóng cây râm mát,
Giọng chim quyên ca ánh sáng mặt trời,
Gió nồng reo trên hồn sen rào rạt,
Mùa xuân còn, hết ? Khách đa tình ơi !”
Xuân Diệu trong điệu xuân ấm áp hoan ca đã nơm nớp riêng mang nỗi sầu thân phận; nhưng không bi lụy mà đầy lãng mạn tích cực, hướng đến tương lai để đón đợi hiện tại hầu được sống muôn đời cùng hiện thực tuổi trẻ- tình yêu. Và nếu nhà thơ có ngậm ngùi, tiếc nuối thì cũng chỉ bùi ngùi tiếc nhớ tuổi trẻ không dài, hạnh phúc-tình yêu trên mặt đất bụi lầm này không bền mà thôi.
Là một nhà thơ không bao giờ chản nản sự sống và luôn khao khát sống huy hoàng, chói lọi, sống là mình; Xuân Diệu cảm nhận: Nếu bằng tốc độ mà vẫn không chiến thắng thời gian thì phải bằng cường độ sống để tồn tại, để mùa sẽ không “ngã chiều hôm”. Trong “Thương vay - Trường ca”, nhà thơ viết: “Thời gian chỉ là sự cử động. Nếu tôi đứng, nếu máu tôi ngừng...thời gian của tôi sẽ không còn nữa.” Con người đứng lại để mặc thời gian trôi cũng có nghĩa là đã chết hay “chết trong khi đang sống” (Nam Cao). Xuân Diệu không chấp nhận lối “sống mòn”, ông háo hứt “Vội vàng” sống và yêu:
"Mau đi thôi ! Mùa chưa ngã chiều hôm,
Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn;
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn,
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu.
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều,
Và non nước và cây và cỏ rạng,
Cho chuếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng,
Cho no nê thanh sắc của thời tươi,
Hỡi xuân hồng ta muốn cắn vào ngươi !”.
Đoạn thơ đã bộc lộ trọn vẹn tư thế và tâm thế thường trực của chủ thể trữ tình. Đấy là một tư thế muốn riết, muốn ôm, muốn cắn, muốn thâu. Đấy là tâm thế khao khát được say, được chuếnh choáng, được no nê trong yến tiệc buổi xuân hồng. Tâm thế và tư thế khát sống ham yêu trong hiện tồn của tuổi trẻ đã làm sống lại phẩm chất thanh tân của những câu thơ miêu tả mùa xuân ở phần đầu bài thơ. Nhà thơ miên man hoà nhập, rung cảm và “dấn thân” vào cuộc sống yêu đương, nên tạo vật mùa xuân như sáng bừng rạng rỡ vĩnh viễn “thanh sắc một thời tươi”.
Khi bàn về con người, nhà triết học Đức, Feuerbach viết: “Trong ý chí, tư duy và tình cảm hàm chứa bản chất tối cao tuyệt đối của con người... Con người sống để nhận thức, để yêu và để ham muốn.” Xuân Diệu trong bài thơ “Vội vàng” là một con người như thế chăng ? Nhà thơ tự nhận thức sự nghiệt ngã của thời gian nên đã dậy lên lòng ham hố sống mãi với tình yêu-tuổi trẻ và đã chọn lựa một trong những phương thức sống, đó là tình yêu. Tình yêu trong hồn thơ Xuân Diệu luôn sôi nổi, thiết tha, rạo rực; có yếu tố thanh sắc trần tục, nặng tính chất hưởng thụ. Với Xuân Diệu, tình yêu là cường độ sống và là sự chiến thắng thời gian chảy trôi.
Cũng có thể ai đó chưa thật sự hài lòng về cách đặt vấn đề và cách thể hiện tình yêu của Xuân Diệu trong “Vội vàng”. Nhưng bình tâm suy xét sẽ đồng điệu, cảm thông với nhà thơ. Xuân Diệu là nhà thơ của đời. “Lầu thơ ông xây dựng chính trên mặt đất trần gian này” (Thế Lữ). Hơn nữa, ông lại là một nhà thơ trẻ, làm sao ông có thể dễ dàng chấp nhận một tình yêu tinh thần, thuần ý niệm, thậm chí ý niệm tuyệt đối như chữ nghĩa của Platon. Tình yêu đích thực và trần thế phải là tình yêu tâm hồn hài hoà với nhục thể. Và chỉ có tình yêu ấy mới sống, mới đủ sức mạnh chiến thắng thời gian.
Và cũng có thể có ai đó cho rằng, “Vội vàng” cổ vũ cho chủ nghĩa hiện sinh, triết lí hiện sinh. Ý kiến ấy không phải không có cái lí của nó. Phải chăng cái lí đó là: cái tôi tuổi trẻ trong thơ sống gấp gáp, sống vội vàng, sống buông thả và trần tục những “muốn” và “muốn” ? Phải chăng cái lí ấy cũng là: quan niệm nghệ thuật về con người trong bài thơ “Vội vàng” phảng phất quan niệm con người nhân vị của triết học hiện sinh ? Con người là một hiện thể, là hiện sinh hằng ngày, là hữu thể đó. Con người cảm nghĩ và tư duy bằng thân xác và con người phải trở thành một nhân vị – “Con người nhận thức về mình, tự tạo cho mình, làm cho mình trở thành mình. Đó là tính chủ thể con người.” (Lịch sử triết học – Bùi Thanh Quất chủ biên, Nxb Giáo Dục, HCM-2001, tr. 345-346).
Đúng là trong “Vội vàng” nói chung và phần thơ đã phân tích nói riêng quả có hơi hướng hiện sinh. Nhưng hiện sinh của Xuân Diệu trong bài thơ không là hiện sinh của Nietzche, J.P. Sartre, Ionesco,... Hiện sinh của Xuân Diệu chỉ là tư tưởng nhân văn, là một niềm khao khát được sống và thụ hưởng hạnh phúc tuổi trẻ-tình yêu giữa cõi nhân sinh biến thường này. Có thể Xuân Diệu chỉ có thơ đòi hỏi hưởng thụ mà không có thơ dâng là một hạn chế. Nhưng xét đến cùng, nếu Xuân Diệu trong “Vội vàng” có hiện sinh đi nữa thì đó là một chủ nghĩa hiện sinh thuần khiết hay nói như R. Harper (triết gia Mỹ), chủ nghĩa hiện sinh của Xuân Diệu là một chủ nghĩa hiện sinh lạc quan.
Phản ứng với thời gian của Xuân Diệu còn có một phương thức khác, đó thơ ca. Với nhà thơ, thời gian không chỉ là cảm xúc, cảm hứng sáng tạo, không chỉ là triết lí thời gian trong thơ; mà còn là một kiến trúc nghệ thuật thơ nữa.
Sinh thời, Xuân Diệu luôn bị sức nặng vô hình day dứt tâm trí ông. Ông rất sợ tuổi già và cái chết. Để chống chọi lại cái chết, sự hữu hạn của tuổi trẻ, của đời người; ông quan niệm: “Cái chết không diệt được cái gì không phải là vật chất. Mà cái đầu tiên không phải là vật chất chẳng phải là thơ sao ? Nhà thơ chỉ cần thả một chiếc lá thơ trên dòng thời gian, thì sẽ bất tử. Thơ có ma lực siêu việt thời gian”. Như vậy, sáng tạo thi ca theo nhà thơ đồng nghĩa với một phương cách kì diệu để trường sinh bất lão. Tất nhiên, thơ có sức mạnh diệu tuyệt ấy, phải là thơ cá thể; thơ thể hiện tư tưởng và phong cách nghệ thuật độc đáo của thi nhân. “Vội vàng” là một bài thơ như thế.
Là nhà thơ lấy tình yêu chọi lại thời gian, nên ông luôn nhìn tạo vật bằng lăng kính phong tình ái ân. Trong mùa xuân vĩnh cửu của nhà thơ có yến anh hát khúc tình si, có ong bướm đang hạnh phúc trong tuần tháng trăng mật. Và ông đã lấy cái đẹp của giai nhân làm chuẩn mực cho thế giới tự nhiên, cho sự vật hiện tượng. Ánh sáng trong mắt ông thật duyên dáng khi “chớp hàng mi” và thời gian thì:
“Tháng
Giêng ngon như một cặp môi gần”.
Và do khát khao thời gian mãi là hiện tại vĩnh cữu, nên Xuân Diệu không có lối ứng xử nghệ thuật như thơ phương Đông xưa, gợi chứ không tả. Xuân Diệu bao giờ cũng trưng cái tôi cụ thể ra và nói bằng lối nói trực truyền trong thơ mình:
“Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn”.
Hay:
“Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi.”
Phải chăng, nghệ sĩ Xuân Diệu đã thả chiếc lá thơ “Vội vàng” vào dòng chảy thời gian với niềm khát khao bỏng cháy bất tử giữa tuổi xuân thì.
7.Triết học và văn chương quan hệ hữu cơ với nhau. Thơ không là triết luận, nhưng thơ hay phải nồng đượm và tụ lắng chất triết văn. “Vội vàng” là bài thơ có chiều sâu thời tính làm cốt tuỷ cho niềm khát khao tuổi trẻ-tình yêu và giao cảm với đời của Xuân Diệu. “Vội vàng” là một triết lí thời gian, một lối ứng xử thời gian của nhà thơ Lãng mạn, 1932-1945: Ngô Xuân Diệu.
Dù bị ám ảnh thời gian, nhưng Xuân Diệu trong thơ “Vội vàng” vẫn yêu đời, yêu người, yêu cảnh, yêu tuổi trẻ và yêu mùa xuân. Dù sống giữa dòng trôi thời gian, cảm thức tuổi trẻ hữu hạn, nhà thơ vẫn:
“Nhưng nghĩ lại sống vẫn hơn là chết
Gần hay xa yêu mến ngọt ngào thay.”
"Vội vàng” là một bài ca nhân bản, nhân văn là vì thế !
Hoàng Dục
Và do khát khao thời gian mãi là hiện tại vĩnh cữu, nên Xuân Diệu không có lối ứng xử nghệ thuật như thơ phương Đông xưa, gợi chứ không tả. Xuân Diệu bao giờ cũng trưng cái tôi cụ thể ra và nói bằng lối nói trực truyền trong thơ mình:
“Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn”.
Hay:
“Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi.”
Phải chăng, nghệ sĩ Xuân Diệu đã thả chiếc lá thơ “Vội vàng” vào dòng chảy thời gian với niềm khát khao bỏng cháy bất tử giữa tuổi xuân thì.
7.Triết học và văn chương quan hệ hữu cơ với nhau. Thơ không là triết luận, nhưng thơ hay phải nồng đượm và tụ lắng chất triết văn. “Vội vàng” là bài thơ có chiều sâu thời tính làm cốt tuỷ cho niềm khát khao tuổi trẻ-tình yêu và giao cảm với đời của Xuân Diệu. “Vội vàng” là một triết lí thời gian, một lối ứng xử thời gian của nhà thơ Lãng mạn, 1932-1945: Ngô Xuân Diệu.
Dù bị ám ảnh thời gian, nhưng Xuân Diệu trong thơ “Vội vàng” vẫn yêu đời, yêu người, yêu cảnh, yêu tuổi trẻ và yêu mùa xuân. Dù sống giữa dòng trôi thời gian, cảm thức tuổi trẻ hữu hạn, nhà thơ vẫn:
“Nhưng nghĩ lại sống vẫn hơn là chết
Gần hay xa yêu mến ngọt ngào thay.”
"Vội vàng” là một bài ca nhân bản, nhân văn là vì thế !
Hoàng Dục
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét