Chủ Nhật, 6 tháng 5, 2012

34. ĐẰM THẮM XUÂN HƯƠNG

                                 Thân tặng TTX.

          Đọc thơ Hồ Xuân Hương, ai cũng dễ dàng nhận ra, nữ sĩ đã đem vào thơ mình và thi ca Việt Nam thời Trung đại  một hệ thống thẩm mĩ mới mẻ chưa từng có trước đây và hình tượng thơ có tính cách biểu tượng hai mặt, có tính chất lưỡng trị. Thơ Hồ Xuân Hương là lối thơ trực cảm và tinh quái khôn ngoan. Trong thơ Hồ Xuân Hương có quỉ, có tiên, nhưng cũng có một người phụ nữ tràn đầy nữ tính.

          Đúng là người phụ nữ trong thơ Hồ Xuân Hương có làm lẽ, chửa hoang, góa bụa cô đơn, hẩm hiu, có “chém cha cái kiếp lấy chồng chung”, nhưng dù thế nào vẫn là một con người hiểu rất rõ sức mạnh vĩ đại của con người, nhận thức  đúng đắn và sâu sắc giá trị đời sống tình cảm của con người. Cho nên, hình tượng người phụ nữ - cái tôi trữ tình của nhà thơ - có lúc quăng vào mặt xã hội phong kiến  cái thứ ngôn ngữ chợ búa hay đảo lộn những giá trị của “hiền nhân quân tử, sư mô” bằng cái phần hạ thể của con người đi nữa thì người đọc vẫn nhận thức được hành động thơ và tư duy nghệ thuật độc đáo ấy là cái phần rất người, rất đằm thắm của thiên nữ tính Xuân Hương. 
          Thiên nữ tính dịu dàng, vị tha vô hạn thời gian kia, có lẽ thể hiện trọn vẹn và sâu sắc nhất trong những vần thơ trữ tình tình yêu và gia đình của người Cổ Nguyệt.
          Thử đọc lại ba bài thơ  bàng bạc nỗi buồn mà rất tiêu tao được viết ra tự sâu thẳm đáy lòng của nữ sĩ, đó là ba bài “Tự tình, những bài ca than thân của Xuân Hương.  Bài thứ nhất, người phụ nữ hóa thân thành chiếc bách giữa dòng đời nổi nênh trong đục. Biển đời không biên giới và đầy sóng dữ, chiếc thuyền duyên phận của nhân vật trữ tình trong thơ chới với không biết sẽ tấp dạt vào đâu. Người phụ nữ  rã rời như hình tượng chiếc thuyền bị phân xẻ thành khoang, thành mạn, thành lái lèo, thành ván. Hạnh phúc ít ỏi cũng bị  hao hụt dần đi. Xuân Hương khát khao hạnh phúc nhưng chẳng được chủ động đến với hạnh phúc. Thôi thì tự rút lui, tự co mình lại, tự náu mình trong chính hồn mình mà  chờ đợi lửng lơ:
                           Ấy  ai thăm ván cam lòng vậy,
                           Ngán nỗi ôm đàn những tấp tênh !
          Ngày đợi chờ, nhưng chẳng biết ai để có niềm vui sum họp nên đêm càng da diết héo mòn cõi lòng hơn. Bài “Tự tình” thứ hai, người phụ nữ như đối diện với trời đêm mông lung bóng tối và đã đem mình mà đối lập  với tất cả. Từ đó nhận ra mình là “người đàn bà bị đặt vào tình thế nông nổi dơ dáng dại hình” (“Các nhà thơ cổ điển Việt Nam”, Xuân Diệu, Nxb Văn học, Hà Nội, 1982, tr 37). Nhưng vẫn mong đợi thắt thỏm trong vần “on” chon von như Xuân Diệu cảm nhận:
                           Trơ cái hồng nhan với nước non.
          Hình ảnh “nước non” thường đi về trong thơ Xuân Hương  gợi sự nghĩ suy về nỗi buồn mang màu sắc triết học của nhà thơ. Hình như Xuân Hương chỉ thấy mình “dại hình” một khi ở trong xã hội phong kiến phi dân chủ, nhân quyền kia thôi. Còn trước thế giới tự nhiên, con người – phụ nữ  rất tự do, rất đẹp, bởi “đi ra từ tạo hóa mọi điều đều tốt lành” ( J. J. Rousseau). Có thể Xuân Hương đã đằm thắm, kín đáo giành lại không – thời gian vũ trụ cho người phụ nữ, không muốn nam giới độc quyền giữa “Vòng trời đất dọc ngang ngang dọc” (Nguyễn Công Trứ) “Nước non” đã thở thành niềm khát vọng nhân văn và cũng là cái nhìn nghệ thuật về người phụ nữ của nhà thơ. Và hình như, vì thế mà những bài thơ trữ tình phong cảnh của nữ sĩ luôn có sự hòa lẫn hình ảnh thiên nhiên với hình ảnh huê tình kì dị của thân thể con người. Thiên nhiên và con người được nhìn nhận và khám phá từ tư tưỏng phồn thực của Xuân Hương.  Cho nên, trong bài thơ dù có “xiên ngang”, “đâm tọac” đi nữa thì Xuân Hương cũng không muốn phá hỏng cái đẹp uyên nguyên của vũ trụ, không muốn đánh mất thiên nữ tính của chính mình và giới mình. Xuân Hương chỉ muốn ghi lại rất thật tâm hồn  mình. Người phụ nữ trong thơ khao khát yêu đương và hạnh phúc trong tình yêu, nhưng sự thật chỉ nhận được một thứ tình cảm loang lỗ, không lành lặn. Con ý thức nhân văn ấy chỉ còn biết đối trăng nghiêng chén:
                             Chén rượu hương đưa say lại tỉnh      
                             Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn
          Và tâm trạng người thơ như đi về buồn bã giữa say và tỉnh, giữa trăng khuyết và chưa tròn.  Xuân Hương say – tỉnh không vì lối ẩm thực dung tục mà vì ruợu đưa “Hương” ngọt ngào. “Say lại tỉnh”, nhưng nữ sĩ không đánh mất chất đằm thắm của người phụ nữ.  “Say lại tỉnh” mà lòng vẫn ôm giữ nỗi khát khao dịu dàng: Vầng trăng hạnh phúc dù bóng xế nhưng sẽ tròn đầy, viên mãn. Nhưng bao giờ trăng viên mãn ? Thế là khép lại bài thơ chỉ còn nỗi ngậm ngùi thở than thân phận:
                          Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại,
                          Mảnh tình san sẻ tí con con.
          Người phụ nữ than thân nên thao thức tưởng không còn ý niệm được thời gian, bỗng giật mình xa xót trước đêm tàn :
                          Tiếng gà văng vẳng gáy trên bom
          Trời đã sắp về sáng, người phụ nữ trong bài thơ “Tự tình” ba vẫn không hề chợp  mắt. Tiếng gà không đánh thức mà khơi sâu thêm nỗi niềm  cô đơn của nhà thơ nữ giữa cảnh vật bao la, giữa bao nhiêu là âm thanh thê thiết, rầu rĩ. Bài thơ có nói đến bản lĩnh Xuân Hương, sự phản kháng Xuân Hương nhưng âm điệu vẫn đằm thắm, tình cảm cũng yếu mềm sầu thảm như bao nhiêu người phụ nữ đương thời.
          Nhà Việt Nam học Niculin nhận định thật chí lí: “Với tất cả lòng yêu đời, Hồ Xuân Hương không có những vẻ tư lự trong thơ mà luôn luôn có những nét buồn ngay cả ở chỗ nhà nữ thi sĩ tỏ ra rất bạo dạn, thậm chí là rất táo tợn” ( “Văn học Việt Nam và giao lưu quốc tế”, Nxb Giáo dục, Hà Nội , 2000, tr 199). Như thế, thơ Xuân Hương luôn có nét buồn nhân văn, nét buồn của tính cách phụ nữ. Nếu nhà thơ có nổi lọan thì cũng chỉ là sự nổi lọan đằm thắm  đượm sắc màu tính nữ . Hiểu như vậy mới thấy những bài thơ viết dưới đề tài tình yêu và gia đình của bà rất duyên dáng, rất đậm bản sắc người phụ nữ Việt Nam. Có lẽ “Mời trầu” là một trong những bài thơ tiêu biểu nhất cho chất đằm thắm Xuân Hương.
          “Mời trầu” là một bài thơ tự bạch hồn nhiên và rất chân thật tình cảm của nhà thơ. Nếu thơ là sự tự biểu hiện, là chân cảm; làm thơ là tự thăng hoa cuộc sống của người làm thơ; thì “Mời trầu” là những dòng thơ tâm tình và khát khao thăng hoa hạnh phúc tình yêu của Xuân Hương. Cảm hứng tư tưởng ấy bắt nguồn từ nguồn văn hóa của nhân dân và từ cái tôi tự ý thức của nữ sĩ. Không ngẫu nhiên chút nào khi nhà thơ dạo đầu bằng “thể hứng” của ca dao dân ca:
                                 Quả cau nho nhỏ miếng trầu hôi
          Có thể thấy nền văn hóa thảo mộc trong câu thơ. Nhưng có lẽ, sau câu thơ thấp thóang nụ cười hạnh phúc hồn nhiên, kín đáo và duyên dáng của chị nông dân trong ca dao:
                                   Ra đường thiếp hãy còn son
                            Về nhà thiếp đã năm con cùng chàng.
          Người phụ nữ trong ca dao không chỉ làm đẹp cho chồng cho con mà còn biết tự làm đẹp mình. Nhưng có lẽ đẹp nhất vẫn là tấm lòng thủy chung và niềm hạnh phúc trong đời sống gia đình của chị.  Phải chăng đó cũng là nét đẹp Xuân Hương. Phải chăng đó là chất thi vị hóa dân gian thấm trong thơ Xuân Hương. Câu thơ “Quả cau nho nhỏ miếng trầu hôi”  như ẩn giấu một thái độ kín đáo trao gởi tâm tình, nhưng cũng rất tế nhị  giới thiệu phẩm chất và khao khát tình yêu và hạnh phúc của nhà thơ. Có thủy chung mới đòi hỏi ai đó thủy chung, mới có lời đề nghị trữ tình, rất dễ xao lòng:
                                  Có phải duyên nhau thì thắm lại
                                  Đừng xanh như lá bạc như vôi.
          Đề nghị đằm thắm mà rụt rè, bởi biết chẳng có ai đáp lại tấm chân tình của mình. Nhưng dù mời trầu mà trước mắt chẳng thấy ai nhận trầu, nhà thơ vẫn đem tấm lòng thủy chung của mình ra mà làm nhịp cầu giao cảm, lấy thủy chung làm sứ điệp tình yêu.  Xuân Hương thủy chung, chân tình và hồn nhiên đến tự nhiên khi đệ ra miếng trầu tình nghĩa, thủy chung của mình têm “Này của Xuân Hương đã quệt rồi”. Miếng trầu tình nghĩa nên lời mời giản dị mà tha thiết, khẳng định mình mà không trịch thượng. Trước sau thái độ “Mời trầu”  của Xuân Hương vẫn mỏng mềm dù đời lạt lẽo với mình. Xuân Hương ước mơ  tình yêu hạnh phúc cháy lòng nhưng không “cả nể”, không vượt ra ngoài tiêu chí định giá hạnh phúc gia đình – sự thủy chung.
          Phải chăng vì thế mà thơ Xuân Hương gần gũi với người đọc mọi thời. Phải chăng đấy cũng là điều làm nên một hình tượng Xuân Hương – “Người đàn bà vĩnh cửu và thần thánh” (Elissavecta Bagriana – Tiệp Khắc) – nhưng rất đằm thắm trong thơ.
                                                       Hoàng Dục
                                                         4 - 2000

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét