Thân tặng TTX.
Đọc thơ Hồ Xuân Hương, ai cũng dễ dàng
nhận ra, nữ sĩ đã đem vào thơ mình và thi ca Việt Nam thời Trung đại một hệ thống thẩm mĩ mới mẻ chưa từng có
trước đây và hình tượng thơ có tính cách biểu tượng hai mặt, có tính chất lưỡng
trị. Thơ Hồ Xuân Hương là lối thơ trực cảm và tinh quái khôn ngoan. Trong thơ
Hồ Xuân Hương có quỉ, có tiên, nhưng cũng có một người phụ nữ tràn đầy nữ tính.
Đúng là người phụ nữ
trong thơ Hồ Xuân Hương có làm lẽ, chửa hoang, góa bụa cô đơn, hẩm hiu, có “chém
cha cái kiếp lấy chồng chung”, nhưng dù thế nào vẫn là một con người hiểu
rất rõ sức mạnh vĩ đại của con người, nhận thức
đúng đắn và sâu sắc giá trị đời sống tình cảm của con người. Cho nên,
hình tượng người phụ nữ - cái tôi trữ tình của nhà thơ - có lúc quăng vào mặt
xã hội phong kiến cái thứ ngôn ngữ chợ
búa hay đảo lộn những giá trị của “hiền nhân quân tử, sư mô” bằng cái
phần hạ thể của con người đi nữa thì người đọc vẫn nhận thức được hành động thơ
và tư duy nghệ thuật độc đáo ấy là cái phần rất người, rất đằm thắm của thiên
nữ tính Xuân Hương.
Thiên nữ tính dịu
dàng, vị tha vô hạn thời gian kia, có lẽ thể hiện trọn vẹn và sâu sắc nhất
trong những vần thơ trữ tình tình yêu và gia đình của người Cổ Nguyệt.
Thử đọc lại ba bài
thơ bàng bạc nỗi buồn mà rất tiêu tao
được viết ra tự sâu thẳm đáy lòng của nữ sĩ, đó là ba bài “Tự tình,
những bài ca than thân của Xuân Hương.
Bài thứ nhất, người phụ nữ hóa thân thành chiếc bách giữa dòng đời nổi
nênh trong đục. Biển đời không biên giới và đầy sóng dữ, chiếc thuyền duyên
phận của nhân vật trữ tình trong thơ chới với không biết sẽ tấp dạt vào đâu.
Người phụ nữ rã rời như hình tượng chiếc
thuyền bị phân xẻ thành khoang, thành mạn, thành lái lèo, thành ván. Hạnh phúc
ít ỏi cũng bị hao hụt dần đi. Xuân Hương
khát khao hạnh phúc nhưng chẳng được chủ động đến với hạnh phúc. Thôi thì tự
rút lui, tự co mình lại, tự náu mình trong chính hồn mình mà chờ đợi lửng lơ:
Ấy ai thăm ván cam lòng vậy,
Ngán
nỗi ôm đàn những tấp tênh !
Ngày đợi chờ, nhưng
chẳng biết ai để có niềm vui sum họp nên đêm càng da diết héo mòn cõi lòng hơn.
Bài “Tự tình” thứ hai, người phụ nữ như đối diện với trời đêm mông lung
bóng tối và đã đem mình mà đối lập với
tất cả. Từ đó nhận ra mình là “người đàn bà bị đặt vào tình thế nông nổi dơ
dáng dại hình” (“Các nhà thơ cổ điển Việt Nam”, Xuân Diệu, Nxb Văn học, Hà
Nội, 1982, tr 37). Nhưng vẫn mong đợi thắt thỏm trong vần “on” chon von
như Xuân Diệu cảm nhận:
Trơ
cái hồng nhan với nước non.
Hình ảnh “nước
non” thường đi về trong thơ Xuân Hương
gợi sự nghĩ suy về nỗi buồn mang màu sắc triết học của nhà thơ. Hình như
Xuân Hương chỉ thấy mình “dại hình” một khi ở trong xã hội phong kiến
phi dân chủ, nhân quyền kia thôi. Còn trước thế giới tự nhiên, con người – phụ
nữ rất tự do, rất đẹp, bởi “đi ra từ
tạo hóa mọi điều đều tốt lành” ( J. J. Rousseau). Có thể Xuân Hương đã đằm
thắm, kín đáo giành lại không – thời gian vũ trụ cho người phụ nữ, không muốn
nam giới độc quyền giữa “Vòng trời đất dọc ngang ngang dọc” (Nguyễn Công
Trứ) “Nước non” đã thở thành niềm khát vọng nhân văn và cũng là cái nhìn
nghệ thuật về người phụ nữ của nhà thơ. Và hình như, vì thế mà những bài thơ
trữ tình phong cảnh của nữ sĩ luôn có sự hòa lẫn hình ảnh thiên nhiên với hình
ảnh huê tình kì dị của thân thể con người. Thiên nhiên và con người được nhìn
nhận và khám phá từ tư tưỏng phồn thực của Xuân Hương. Cho nên, trong bài thơ dù có “xiên ngang”,
“đâm tọac” đi nữa thì Xuân Hương cũng không muốn phá hỏng cái đẹp uyên
nguyên của vũ trụ, không muốn đánh mất thiên nữ tính của chính mình và giới
mình. Xuân Hương chỉ muốn ghi lại rất thật tâm hồn mình. Người phụ nữ trong thơ khao khát yêu
đương và hạnh phúc trong tình yêu, nhưng sự thật chỉ nhận được một thứ tình cảm
loang lỗ, không lành lặn. Con ý thức nhân văn ấy chỉ còn biết đối trăng nghiêng
chén:
Chén
rượu hương đưa say lại tỉnh
Vầng
trăng bóng xế khuyết chưa tròn
Và tâm trạng người
thơ như đi về buồn bã giữa say và tỉnh, giữa trăng khuyết và chưa tròn. Xuân Hương say – tỉnh không vì lối ẩm thực
dung tục mà vì ruợu đưa “Hương” ngọt ngào. “Say lại tỉnh”, nhưng
nữ sĩ không đánh mất chất đằm thắm của người phụ nữ. “Say lại tỉnh” mà lòng vẫn ôm giữ nỗi
khát khao dịu dàng: Vầng trăng hạnh phúc dù bóng xế nhưng sẽ tròn đầy, viên
mãn. Nhưng bao giờ trăng viên mãn ? Thế là khép lại bài thơ chỉ còn nỗi ngậm
ngùi thở than thân phận:
Ngán
nỗi xuân đi xuân lại lại,
Mảnh
tình san sẻ tí con con.
Người phụ nữ than
thân nên thao thức tưởng không còn ý niệm được thời gian, bỗng giật mình xa xót
trước đêm tàn :
Tiếng
gà văng vẳng gáy trên bom
Trời đã sắp về sáng,
người phụ nữ trong bài thơ “Tự tình” ba vẫn không hề chợp mắt. Tiếng gà không đánh thức mà khơi sâu
thêm nỗi niềm cô đơn của nhà thơ nữ giữa
cảnh vật bao la, giữa bao nhiêu là âm thanh thê thiết, rầu rĩ. Bài thơ có nói
đến bản lĩnh Xuân Hương, sự phản kháng Xuân Hương nhưng âm điệu vẫn đằm thắm,
tình cảm cũng yếu mềm sầu thảm như bao nhiêu người phụ nữ đương thời.
Nhà Việt Nam học
Niculin nhận định thật chí lí: “Với tất cả lòng yêu đời, Hồ Xuân Hương không
có những vẻ tư lự trong thơ mà luôn luôn có những nét buồn ngay cả ở chỗ nhà nữ
thi sĩ tỏ ra rất bạo dạn, thậm chí là rất táo tợn” ( “Văn học Việt Nam và
giao lưu quốc tế”, Nxb Giáo dục, Hà Nội , 2000, tr 199). Như thế, thơ Xuân
Hương luôn có nét buồn nhân văn, nét buồn của tính cách phụ nữ. Nếu nhà thơ có
nổi lọan thì cũng chỉ là sự nổi lọan đằm thắm
đượm sắc màu tính nữ . Hiểu như vậy mới thấy những bài thơ viết dưới đề
tài tình yêu và gia đình của bà rất duyên dáng, rất đậm bản sắc người phụ nữ
Việt Nam.
Có lẽ “Mời trầu” là một trong những bài thơ tiêu biểu nhất cho chất đằm
thắm Xuân Hương.
“Mời trầu” là
một bài thơ tự bạch hồn nhiên và rất chân thật tình cảm của nhà thơ. Nếu thơ là
sự tự biểu hiện, là chân cảm; làm thơ là tự thăng hoa cuộc sống của người làm
thơ; thì “Mời trầu” là những dòng thơ tâm tình và khát khao thăng hoa
hạnh phúc tình yêu của Xuân Hương. Cảm hứng tư tưởng ấy bắt nguồn từ nguồn văn
hóa của nhân dân và từ cái tôi tự ý thức của nữ sĩ. Không ngẫu nhiên chút nào
khi nhà thơ dạo đầu bằng “thể hứng” của ca dao dân ca:
Quả
cau nho nhỏ miếng trầu hôi
Có thể thấy nền văn
hóa thảo mộc trong câu thơ. Nhưng có lẽ, sau câu thơ thấp thóang nụ cười hạnh
phúc hồn nhiên, kín đáo và duyên dáng của chị nông dân trong ca dao:
Ra
đường thiếp hãy còn son
Về
nhà thiếp đã năm con cùng chàng.
Người phụ nữ trong ca
dao không chỉ làm đẹp cho chồng cho con mà còn biết tự làm đẹp mình. Nhưng có
lẽ đẹp nhất vẫn là tấm lòng thủy chung và niềm hạnh phúc trong đời sống gia
đình của chị. Phải chăng đó cũng là nét
đẹp Xuân Hương. Phải chăng đó là chất thi vị hóa dân gian thấm trong thơ Xuân
Hương. Câu thơ “Quả cau nho nhỏ miếng trầu hôi” như ẩn giấu một thái độ kín đáo trao gởi tâm
tình, nhưng cũng rất tế nhị giới thiệu
phẩm chất và khao khát tình yêu và hạnh phúc của nhà thơ. Có thủy chung mới đòi
hỏi ai đó thủy chung, mới có lời đề nghị trữ tình, rất dễ xao lòng:
Có
phải duyên nhau thì thắm lại
Đừng
xanh như lá bạc như vôi.
Đề nghị đằm thắm mà rụt rè, bởi biết chẳng
có ai đáp lại tấm chân tình của mình. Nhưng dù mời trầu mà trước mắt chẳng thấy
ai nhận trầu, nhà thơ vẫn đem tấm lòng thủy chung của mình ra mà làm nhịp cầu
giao cảm, lấy thủy chung làm sứ điệp tình yêu.
Xuân Hương thủy chung, chân tình và hồn nhiên đến tự nhiên khi đệ ra
miếng trầu tình nghĩa, thủy chung của mình têm “Này của Xuân Hương đã quệt
rồi”. Miếng trầu tình nghĩa nên lời mời giản dị mà tha thiết, khẳng định
mình mà không trịch thượng. Trước sau thái độ “Mời trầu” của Xuân Hương vẫn mỏng mềm dù đời lạt lẽo với
mình. Xuân Hương ước mơ tình yêu hạnh
phúc cháy lòng nhưng không “cả nể”, không vượt ra ngoài tiêu chí định
giá hạnh phúc gia đình – sự thủy chung.
Phải chăng vì thế mà
thơ Xuân Hương gần gũi với người đọc mọi thời. Phải chăng đấy cũng là điều làm
nên một hình tượng Xuân Hương – “Người đàn bà vĩnh cửu và thần thánh”
(Elissavecta Bagriana – Tiệp Khắc) – nhưng rất đằm thắm trong thơ.
Hoàng Dục
4 - 2000
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét