Chủ Nhật, 6 tháng 5, 2012

36. TRẮC NGHIÊM VĂN CHƯƠNG

I. MỞ ĐẦU:
   1. Thế kỉ XXI là thế kỉ của công nghệ thông tin và kinh tế tri thức. Thực tiễn ấy yêu cầu đất nước ta phải khẩn trương đổi mới để hoà nhập cùng thế giới trên con đường hiện đại hoá. Muốn vậy cần có chiến lược mới về con người mà nhiệm vụ  đào tạo con người không ai khác hơn là ngành giáo dục. 

    Nhận thức rõ nhiệm vụ cao quý, nhưng không kém phần nặng nề và phức tạp này, Bộ Giáo dục và Đào tạo trong thập niên vừa qua đã không ngừng cải cách, đổi mới từ chương trình học đến sách giáo khoa; từ phương pháp giảng dạy đến tổ chức thi cử ở các cấp học bậc học. Việc cải cách đổi mới ấy đã có những thành công rất đáng trân trọng. Tuy vậy, việc dạy-học và thi cử vẫn còn nhiều chỗ chưa thật sự cải cách và đổi mới triệt để. Nhìn một cách toàn cục bức tranh giáo dục của chúng ta hiện nay không phải không có chỗ thiếu tươi tắn, vẫn còn đó đây mắc căn bệnh thành tích, rơi vào chủ nghĩa hình thức. Đặc biệt việc tổ chức thi cử khá cồng kềnh và tốn kém; vẫn giữ hình thức thi bài trắc nghiệm tư luận (trắc nghiệm luận đề) (essay-type test), nên chưa thật sự lượng giá hết năng lực, kiến thức của học sinh.
    2. Từ yêu cầu lịch sử và thực trạng giáo dục, ngành đã có những bước chuẩn bị rất tích cực cho việc đổi mới thi cử bằng phương pháp trắc nghiệm khách quan (Objective test). Năm 1986, Đại học sư phạm Hà Nội đã tổ chức hội thảo trắc nghiệm do Herath hướng dẫn dưới sự tài trợ của UNDP. Kể từ năm 1993 đến nay, Bộ Giáo dục và Đào tạo hoặc một số trường Đại học đã tổ chức nhiều cuộc hội thảo về loại bài thi này. Bên cạnh đó cũng đã có những công trình khoa học về trắc nghiệm khách quan:
         - Trắc nghiệm giáo dục do Tiến sĩ Huỳnh Huynh chủ biên, Nxb Hàn Thuyên, Sài Gòn, 1973.
         - Trắc nghiệm và đo lường thành quả học tập của Tiến sĩ Dương Thiệu Tống, Nxb Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh, 1995.
         - Phương pháp trắc nghiệm trong kiểm tra và đánh giá thành quả học tập do Tiến sĩ Nguyễn Phụng Hoàng chủ biên, Nxb Giáo dục, 1996.
      Và trong năm học 2004 - 2005, Bộ ra thông báo  thi tuyển vào đại học, cao đẳng và trung học chuyên nghiệp, môn tiếng Anh bằng hình thức trắc nghiệm khách quan; nhưng rồi do dư luận của học sinh và phụ huynh nên tạm đình hoãn không thực hiện nữa.
     3. Riêng với môn ngữ văn, việc áp dụng bài thi trắc nghiệm khách quan là một vấn đề nan giải. Bởi lẽ, cho đến nay những ý kiến về cách thức thi cử này vẫn chưa có được một sự đồng thuận. Có ý kiến cho rằng, văn chương không thể áp dụng trắc nghiệm khách quan vì không đo lường được năng lực cảm thụ, kĩ năng diễn đạt hành văn, nhất là phong cách nghệ thuật của học sinh. Lại có ý kiến, trắc nghiệm khách quan chỉ có thể áp dụng cho các phân môn tiếng Việt, làm văn hay các bài văn học sử, tác gia và tác phẩm,...
     Theo thiển ý của chúng tôi, dù văn chương có đặc trưng riêng của nó, nhưng không thể không áp dụng được kiểu bài thi trắc nghiệm khách quan. Trái lại, bài thi trắc nghiệm khách quan cũng có khả năng đánh giá năng lực cảm thụ, kĩ năng hành văn và phong cách của học sinh, nếu nắm chắc mục đích trắc nghiệm và có những câu trắc nghiệm tốt. Nói như thế chúng tôi không có ý đề cao quá mức trắc nghiệm khách quan. Trắc nghiệm khách quan là hình thức kiểm tra đánh giá tối ưu chứ không phải là duy nhất đúng như Tiến sĩ Dương Thiệu Tống viết: “Chắc chắn nó không là hình thức kiểm tra, đánh giá duy nhất và nó cũng không thể thay thế hoàn toàn loại trắc nghiệm luận đề trong các trường học tương lai. Cả hai đều bổ túc cho nhau, tuỳ theo nhu cầu, mục tiêu khảo sát, vì loại kiểm tra đánh gía nào cũng có những ưu khuyết điểm riêng của nó cả” (Trắc nghiệm và đo lường thành quả học tập, Trường Đại học Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh, 1995, tr. 1-2).
       Hơn nữa, trên tinh thần: “xây dựng chương trình ngữ văn theo nguyên tắc tích hợp – tích hợp đọc văn với lí luận văn học, lịch sử văn học, tri thức văn hoá, tích hợp lí luận giao tiếp với kĩ năng tư duy; óc suy lí, chặt chẽ với hình tượng bóng bẩy,... (Báo Giáo dục và Thời đại, số 69, ra ngày 8-6-2002, tr. 8) và phương châm lấy học sinh làm trung tâm, học sinh là chủ thể tiếp nhận; thì việc vận dụng kết hợp hai hình thức trắc nghiệm là hoàn toàn phù hợp. Vì chúng tôi thiết nghĩ, cái nguyên tắc tích hợp nêu trên là sự tích hợp của nhiều kĩ năng nhiều tri thức, nên trắc nghiệm tư luận khó có thể lượng giá hết được mà chỉ có trắc nghiệm khách quan là thích hợp nhất. Và dạy học theo phương châm lấy học sinh làm trung tâm, khái niệm trung tâm không chỉ khẳng định học sinh là chủ thể tiếp nhận văn chương mà còn chủ thể trắc nghiệm và đo lường thành quả học tập của chính mình một cách khách quan và trung thực nữa.
       Do những mục đích và ý nghĩa trên mà chúng tôi chọn đề tài trắc nghiệm văn chương này, mong góp một phần nhỏ trong việc thẩm định thành quả học tập môn văn ở nhà trường THPT một cách khách quan và chính xác nhất.
II. TRẮC NGHIỆM KHÁCH QUAN TỪ LÍ THUYẾT ĐẾN ỨNG DỤNG:
   1. Lịch sử hình thành và phát triển
    1.1. Trắc nghiệm khách quan đã hình thành và phát triển ở phương Tây vào thế kỉ XIX. Người đi đầu là Francis Galton (Anh), sau đó là Cattell đã vận dụng trắc nghiệm khách quan vào việc đo lường những đặc điểm năng lực trí tuệ của con người với mục đích khảo sát những đặc tính cá nhân về di truyền.       
Đầu thế kỉ XX, Thorndike lần đầu tiên dùng trắc nghiệm khách quan để đánh giá thành quả học tập của học sinh. Năm 1904, Alfred Binet, nhà tâm lí học người Pháp, đã nghiên cứu phương pháp trắc nghiệm khách quan nhằm khảo sát một số học sinh khuyết tật, tâm thần, làm cơ sở cho việc trắc nghiệm trí thông minh sau này. Năm 1936, Lewis Terman ở Standford University đã hiệu chỉnh và dịch bài trắc nghiệm của Binet ra anh ngữ, do đó trắc nghiệm này được gọi là trắc nghiệm trí tuệ.
     Khi thế chiến I nổ ra, hội tâm lí học Mỹ đã soạn thảo những bài trắc nghiệm Alpha và Beta để tuyển chọn binh sĩ. Đấy là những bài trắc nghiệm khách quan đầu tiên.
     1.2. Kể từ năm 1920, trắc nghiệm khách quan phát triển nhanh chóng, nhất là trắc nghiệm thành quả học tập, được sử dụng rộng rãi trong các trường học vì tính ưu việt của nó.
         - Ở Hoa Kì: Để kiểm tra chất lượng giáo dục, tổ chức lớn nhất là ETS (Education Testing Services - Dịch vụ trắc nghiệm giáo dục) chuyên sản xuất các đề thi trắc nghiệm tiêu chuẩn hoá và tổ chức dịch vụ thi. SAT (Scholatic Aptitde Test - Trắc nghiệm năng lực khoa học) tổ chức, đánh giá khả năng toán học và khả năng sử dụng ngôn ngữ của học sinh trung cao, làm cơ sở cho việc tuyển sinh đại học. CLEP (College level Exammination program - Chương trình thi trình độ đại học đại cương) dùng cho những người tự học, những người đã nghỉ học đại học đã lâu hoặc những người muốn miễn một số môn học đại cương. GRE (Graduate Record Examination) dùng để kiểm tra kiến thức đại học của một số ngành tương ứng để tuyển vào cao học. TOEFT (Test of English as a Foreinge Language - Trắc nghiệm  Anh ngữ với tư cách là một ngoại ngữ) nhằm cấp chứng chỉ du học đại học ở Hoa Kì và các nước nói tiếng Anh hàng năm.
       - Ở Nhật Bản: Hội các đại học quốc gia  đã tổ chức kì thi liên kết JAT (Joint Achievement Test) để kiểm tra kết quả học tập liên kết, đánh giá trình độ phổ thông trung học theo phương pháp trắc nghiệm khách quan. Điểm của kì thi này là cơ sở quan trọng để các trường đại học xét tuyển.
       - Ở Thái Lan: Để tuyển sinh đại học, Thái Lan cũng tổ chức kì thi liên kết JHEEE (Joint Higher Education Entrance Examination - Thi tuyển sinh đại học liên kết) do Bộ Đại học quản lí. Sau khi có điểm JHEEE, các viện đại học có thể phỏng vấn thêm hoặc kiểm tra năng khiếu... tuỳ thuộc vào yêu cầu ngành nghề của mình.
       - Ở Trung Quốc: Trung Quốc có cơ quan đặc trách thi cử giáo dục quốc gia NEEA (National Education Examination Authrety) sử dụng phương pháp trắc nghiệm khách quan để đánh giá chất lượng học tập, chất lượng giảng dạy, đánh giá sinh viên và giáo viên,... Trung Quốc đã thử nghiệm tuyển sinh đại học bằng phương pháp này vào năm 1985 và áp dụng trển cả nước vào năm 1989. Cũng từ năm 1985, Trung Quốc đã cải cách kì thi tốt nghiệp THPT bằng trắc nghiệm khách quan và đánh giá toàn diện các môn học.
        - Riêng ở Việt Nam: Theo một số tư liệu, năm 1950, trắc nghiệm khách quan đã được các cơ quan quốc tế sử dụng nhằm khảo sát khả năng ngoại ngữ của học sinh. Nhưng mãi đến cuối năm 1969 đến đầu năm 1970, trắc nghiệm khách quan mới được đưa vào giảng dạy ở các lớp cao học tại Đại học sư phạm Sài gòn. Còn ở bậc THPT, năm 1965, môn công dân thi trắc nghiệm. Năm 1968, môn sử địa thi trắc nghiệm. Năm 1974, các bài thi trắc nghiệm tiêu chuẩn hoá áp dụng lần đầu tiên cho tất cả các môn thi tú tài ở miền Nam Việt Nam. Năm 1986, Đại học sư phạm Hà Nội đã tổ chức hội thảo trắc nghiệm do Herath hướng dẫn dưới sự tài trợ của UNDP.
     2. Vài nét về lí thuyết trắc nghiệm khách quan:
      Về trắc nghiệm khách quan, các chuyên gia đã hình thành một hệ thống lí thuyết rất khoa học, từ khâu ra đề đến phân tách, chỉ số phân biệt, giá trị của chúng. Ở đây chúng tôi không trình bày lại tất cả, chỉ xin được khái quát những nét cơ bản.
      2.1. Loại trắc nghiệm khách quan đòi hỏi ít về sự phán đoán của người chấm bài. Điểm số không tuỳ thuộc vào giám khảo. Dùng trắc nghiệm khách quan để lượng giá, người ta có thể bao trùm một số lớn các chủ đề mà thời gian làm bài hạn định. Loại trắc nghiệm chủ quan đòi hỏi sự phán đoán của giám khảo khi lượng giá sự trả lời hoặc làm bài của thí sinh. Đối với loại trắc nghiệm này thời gian ở lớp học chỉ cho phép trả lời một số ít câu hỏi, vì thường học sinh phải bàn luận về mỗi câu hỏi khá dài.
      2.2. Các loại trắc nghiệm khách quan: Theo Huỳnh Huynh, các câu hỏi trắc nghiệm khách quan hiện dùng có thể quy về hai loại:
         - Loại trả lời tự do (Trắc nghiệm điền khuyết là một trường hợp đặc biệt).
         - Loại trả lời có giới hạn: 2 trả lời (đúng - hoặc có-không), Loại nhiều lựa chọn (2 lựa chọn trở lên), loại ghép”. (Trắc nghiệm giáo dục, Nxb Hàn Thuyên, Sài Gòn, 1973, tr; 22).
Cụ thể có các loại trắc nghiệm khách quan là:
         - Trắc nghiệm có trả lời tự do: Đây loại trắc nghiệm mà mỗi câu được thể hiện dưới hình thức một câu hỏi trực tiếp hoặc một lời chỉ dẫn đặc biệt hoặc một phát biểu chưa trọn vẹn. Loại này có thể có một câu trả lời hoặc nhiều câu trả lời. Học sinh tự tìm câu trả lời. Loại này khác với trắc nghiệm tư luận ở chiều dài câu trả lời. Câu trả lời của loại trắc nghiệm này ngắn, thường là một chữ hoặc một câu ngắn.
         - Trắc nghiệm điền khuyết: Đây là hình thức đặc biệt của của loại trắc nghiệm trả lời tự do. Các câu trắc nghiệm điền khuyết là một mệnh đề hay những phát biểu trong đó các chữ hoặc câu quan trọng được bỏ trống để học sinh điền vào. Một câu hay một phát biểu có thể chứa một hoặc nhiều khoảng trống. Những câu có thể không liên hệ nhau hoặc có thể hợp thành một đoạn. Thường thường một khoảng trống được tính một điểm.
         - Loại trắc nghiệm đúng sai: Đây là loại có hai trả lời, mà hình thức quen dùng nhất là trả lời đúng - sai. Hình thức tương tự là có - không, cùng nghĩa - trái nghĩa. Loại trắc nghiệm này là một phương tiện quan trọng để trắc lượng số lượng lớn kiến thức của học sinh chỉ trong một thời gian ngắn.
        - Loại trắc nghiệm có nhiều lựa chọn: Đây là những câu trắc nghiệm trình bày một vấn đề dưới hình thức một câu hỏi trực tiếp hoặc phát biểu chưa trọn vẹn và được trả lời bổ sung theo nhiều cách khác nhau. Thông thường, học sinh phải lựa chọn câu trả lời đúng hay đúng nhất cho câu hỏi hoặc lựa chọn câu bổ sung đúng hay đúng nhất cho phát biểu chưa trọn. Trắc nghiệm có nhiều lựa chọn được xem là có giá trị nhất và có tầm áp dụng rộng rãi nhất trong các hình thức trắc nghiệm khách quan.
        - Loại trắc nghiệm ghép đôi (xứng hợp): Đây là một dạng đặc biệt của trắc nghiệm có nhiều lựa chọn. Nhưng khác ở chỗ: loại trắc nghiệm ghép đôi gồm nhiều câu xếp đặt thành một cột kèm theo nhiều câu trả lời xếp thành một cột khác. 
   2.3.  Trắc nghiệm tiêu chuẩn hoá và trắc nghiệm do giáo viên soạn.
      Trắc nghiệm khách quan tiêu chuẩn hoá là loại trắc nghiệm mà sự điều hành và cách chấm điểm phải theo những chỉ dẫn đặc biệt. Loại trắc nghiệm này có sẵn những điểm số tiêu chuẩn mà dựa vào những điểm số này ta có thể so sánh kết quả của một thí sinh này với kết quả của những thí sinh khác trong một “dân số” tương tự.
      Trắc nghiệm do giáo viên biên soạn là loại trắc nghiệm thường được dùng để lượng giá sự học hỏi của các em học sinh trong lớp do chính giáo viên ấy phụ trách.
    2.4. Lượng giá một câu trắc nghiệm.
          Để có thể đạt được mục đích đánh giá xếp loại thành quả học tập của học sinh, một bài trắc nghiệm khách quan thực sự phải chất lượng. Một bài trắc nghiệm hay bao gồm những câu trắc nghiệm hay. Một câu trắc nghiệm hay khi nó có thể đo lường một cách chính xác, trung thực và hữu hiệu thành quả học tập của học sinh. Vì vậy, khi ra trắc nghiệm, người thầy phải cho học sinh ở nhiều lớp làm bài, rồi thống kê điểm giỏi điểm kém để lượng giá chúng (test – retest). Để lượng giá một câu trắc nghiệm thực sự hay hay không, người ta có thể áp dụng nhiều công thức như: công thức SPEARMAN – BROWN, công thức STANLEY, công thức KUDER – RICHARDSON . Đây là những công thức dùng để xác định độ tin cậy, giá trị của loại trắc nghiệm tiêu chuẩn hoá. Với loại trắc nghiệm ở lớp học, người thầy ra đề, chỉ cần áp dụng hai công thức sau:
      - Công thức tính chỉ số phân biệt học sinh giỏi và học sinh kém.   
                                     ĐG  -  ĐK
                            D =  -------------- x 100%
                                            N
    (D: chỉ số phân biệt, ĐG: số HS giỏi trả lời đúng, DDK: số HS kém trả lời đúng, N: số học sinh trong mỗi nhóm).
     Một câu trắc nghiệm hay khi tất cả học sinh giỏi trả lời đúng và tất cả học sinh kém trả lời sai, chỉ số phân biệt là 100%.
          - Công thức tính chỉ số khó.
                                        ĐG + ĐK   
                             H =    -------------   x  100%
                                             2N       
    (ĐG  và ĐK số học sinh giỏi và học sinh kém trả lời trả lời đúng, H là chỉ số khó, N là số học sinh trong mỗi nhóm).
    Chỉ số khó là tỷ lệ HS thuộc một nhóm trả lời đúng một câu trắc nghiệm khách quan.
    3. Vận dụng trắc nghiệm vào đánh giá thành quả học tập bộ môn văn.
     3.1. Vận dụng trắc nghiệm vào bài kiểm tra 15 phút.
       Thông thường bài tập kiểm tra 15 phút sử dụng trắc nghiệm tư luận mất khá nhiều thời gian làm bài ảnh hưởng đến thời lượng giảng bài và chấm bài cũng khá mất công. Sử dụng trắc nghiệm khách quan có những lợi điểm: chủ động thời gian, kiểm tra được nhiều kiến thức, học sinh có thể chấm bài bằng cách tráo bài cho nhau. Kiểm tra 15 phút, chúng tôi thường ra 10 câu với 3 loai trắc nghiệm: điền khuyết, đúng – sai và ghép đôi.
    Thí dụ 1 (trắc nghiệm đúng-sai):
    Lời chỉ dẫn: Đọc kĩ những câu sau đây và ghi những hàng để trống ở cột bên phải chữ Đ (đúng) hoặc S (sai) nếu xét là đúng hoặc sai.
1.Thuyết “tài mệnh tương đố” trong truyện Kiều
    là của Nho giáo                                                           ___________ (1)
2. Triết lí truyện Kiều là mượn ở Phật giáo.                       ___________ (2)
3. “Kiếp này trả nợ chưa xong
   Làm chi thêm một nợ chồng kiếp sau”
 là hai câu thơ trong truyện Kiều nói lên cái
              nghiệp của nàng Kiều.                                                  ___________ (3)
4. Chữ “nghiệp” trong truyện Kiều dựa vào luật
             nhân quả của Nho giáo.                                                          ___________ (4)
5. Lớp nhà Nho khuyên rằng:
              “.............đàn bà chớ kể Thuý Vân, Thuý Kiều”
             vì cho rằng truyện Kiều là một dâm thư                         ___________ (5)
Thí dụ 2 (trắc nghiệm ghép):
  Lời chỉ dẫn: Trong cột thứ nhất là những câu thơ nói lên thái độ trước cảnh nghèo của các tác giả, tên tác giả được xếp trong cột thứ hai. Hãy ghép đúng tác giả cho những câu thơ ấy bằng cách chỉ ghi mẫu tự vào khoảng trống dành sẵn ở cột thứ nhất.
_________ 1. Số khả bỉ rồi thời lại thái 
                   Cơ thường đông hết hẳn sang xuân                         _________ 2. Thôi cũng biết cùng thông là mệnh cả                
                   Cũng đừng đem hình dịch lại cần chi                     _________ 3. Sống lâu lâu để làm gì nhỉ   Lâu để mà xem cuộc chuyển vần
A. Nguyễn Khuyến
B. Trần Tế Xương
B. Trần Tế Xương
C. Nguyễn Công Trứ
D. Cao Bá Quát
 E. Tản Đà
    3.2. Vận dụng trắc nghiệm khách quan vào bài kiểm 1 tiết.
          Với bài kiểm tra 1 tiết trở lên, chúng tôi kết hợp trắc nghiệm tư luận với trắc nghiệm khách quan tính theo tỷ lệ điểm 4/6 (tư luận: 4, trắc nghiệm: 6). Chúng tôi thường sử dụng loại trắc nghiệm có nhiều lựa chọn với các hình thức:
Thí dụ:
 1. Tác phẩm nào sau đây KHÔNG do Tản Đà sáng tác?
 A. Giấc mộng con           B. Giấc mộng lớn            C. Thề non nước
                   D. Liêu trai chí dị            E. Khối tình con.
  Đọc đoạn thơ sau đây để trả lời các câu hỏi 2 và 3.
                               Phong trần kiếp đã chịu này
                       Lầm tham lại có thứ này bằng hai.
                               Phận sao bạc chẳng vừa thôi?
                       Khăng khăng buộc mãi lấy người hồng nhan!
                               Đã đành túc trái tiền oan...
2. Đoạn này trong truyện Kiều của Nguyễn Du diễn tả tâm trạng của Thuý Kiều:
A. bị Tú Bà làm nhục                B. theo Sở Khanh trốn đi
C. bị hành hạ ở nhà Hoạn Thư   D. bị sa vào lầu xanh lần nữa
                   E. được cứu sống ở sông Tiền Đường
3. Ý chính của đoạn thơ trên muốn kiểm chứng điều nào do tác giả đưa ra?
A. thuyết tài mệnh tương đố                B. luật bỉ sắc tư phong
C. luật nhân quả của nhà Phật             D. chữ mệnh của nhà Nho
                   E. tất cả đều đúng.
3.3. Vận dụng trắc nghiệm khách quan bài tuyển chọn HSG.
   Thực tiễn dạy văn ở các trường chuyên thường đòi hỏi phải thành lập đội tuyển học sinh giỏi để bồi dưỡng chuẩn bị cho các kì thi học sinh giỏi các cấp, chúng ta có thể áp dụng bài thi trắc nghiệm khách quan có chỉ số khó thấp (các câu trắc nghiệm phải khó để chỉ có một số học sinh trả lời đúng).
  Chúng tôi sử dụng các hình thức trắc nghiệm khách quan:
    - Trắc nghiệm có trả lời tự do. Đây là loại trắc nghiệm đòi hỏi trí thông minh, không thể đoán mò và học thuộc lòng. Trắc nghiệm có trả lời tự do có 3 hình thức ra đề: một câu hỏi trực tiếp, một lời chỉ dẫn đặc biệt và một phát biểu chưa trọn gồm một hay nhiều câu trả lời.
Thí dụ:
  Lời chỉ dẫn: Viết vào ngoặc đơn ở bên phải của mỗi câu một từ hoặc một cụm từ sao cho câu trọn nghĩa và hay.
1. Nói nghệ thuật tức là nói đến............    (                        ) 1
2. Thơ như con sóng thời đại cứ vỗ hoài vào bờ,
    nhưng thơ làm cho con người...............  (                     ) 2
3. Với nhà thơ, bạn đọc là.................          (                  ) 3
4. “Mùa hạ đi rồi em ở đây
     Con ve kêu nát cả ................”            (                  ) 4
5. Một sự vĩnh hằng
         “Ngày mẹ tôi bước vào tuổi Bảy ba
           Bà con mang cổ quan tài đến tặng
           Mẹ tôi đem đựng..........................      (                  ) 5
           Rồi bước ra vườn tưới nước cho hoa”
                             (Trần Kính, Văn nghệ, 1986)
      - Loại trắc nghiệm điền khuyết: mục đích kiểm tra trí nhớ của học sinh về những ý kiến, những nhận định hay có thể vận dụng trong bài trắc nghiệm tư luận.
 Thí dụ:
  Lời chỉ dẫn: Khi trả lời phải viết ngay ở các hàng phía dưới có cùng số với những chữ đã bỏ trống sau đây:
 “Tôi quyết rằng trong lịch sử thi ca Việt   Nam chưa bao giờ có một thời đại phong phú như thời đại này. Chưa bao giờ người ta thấy xuất hiện cùng một lần một hồn thơ ......(1)..... như Thế Lữ, mơ màng như .......(2)......, ........(3)...... như Huy Thông, trong sáng như .......(4)......., ......(5) ....... như  Huy Cận, .......(6) như Nguyễn Bính, .......(7) ...... như Chế Lan Viên,... và thiết tha, .......(8)...... băn khoăn như Xuân Diệu.”
  __________(1)     ___________(2)   ___________(3)   ___________(4)     __________(5)     ___________(6)   ___________(7)   ___________(8)
    - Loại câu trắc nghiệm có nhiều lựa chọn:
      Thí dụ:
      1. “Nếu thơ văn Trần Tế Xương phản ánh xã hội Việt Nam qua tầng lớp thị dân đang bị phân hoá của thời Pháp thuộc, thì thơ văn của ông đã phản ánh được xã hội nông thôn Việt Nam ngoài vòng ảnh hưởng của văn minh Tây phương”.
          Đó là một câu nhận định về nhà thơ nào?
 A. Chu Mạnh Trinh                            B. Nguyễn Đình Chiểu
 C. Tản Đà                                          D. Nguyễn Khuyến
                             E. Không câu nào đúng.
     2. Câu 2, 3 và 4:
                                      Thu Điếu
                   Ao thu lạnh lẽo nước trong veo
                   Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo
                   Sóng biếc theo làn hơi gợn tí
                   Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo
                   Từng mây lơ lửng trời xanh ngắt
                   Ngõ trúc quanh co khách vắng teo
                   Tựa gối ôm cần lâu chẳng được
                   Cá đâu đớp động dưới chân bèo.
   2. Chấp nhận bài thơ luật Đường có nguyên tắc sau:
          - Hai câu đề: giới thiệu tổng quát.
          - Hai câu thực: nói rõ về đề.
          - Hai câu luận: bàn về đề.
          - Hai câu kết: trở về đề.
    Trong bài này hai câu nào đã xa nguyên tắc nêu trên nhất?
    A. hai câu kết            B. hai câu luận
    C. hai câu thực                   D. hai câu đề
                        E. Bốn câu A, B, C, D sai cả.
    3. Những hình ảnh trong bài này có tính chất nào?
    A. Có tính ước lệ.                    B. Thường gặp trong Đường thi.
    C. Được xếp đặt và chọn lựa kĩ.   D. Đều mờ nhạt, không đi vào chi tiết.
                         E. Đều nhỏ bé, làm nổi bật nỗi cô đơn.
    4. Bốn câu thơ cuối tác giả đã dàn ý theo lối nào?
    A. Cảnh từ cao xuống thấp                     B. Cảnh từ xa đến gần
    C. Từ yên tĩnh đột ngột sang động               D. Cả ba câu trên đều đúng
                             E. Cả ba câu trên đều sai.
    5. Sau đây là 3 câu thơ còn bỏ trống:
                         Muỗi vắt nhiều hơn cỏ
                         Chướng khí mù hơi sương
                         Thân không là lính chiến
                         ........................................
      Trong 5 câu dưới đây, câu nào hợp nhất về ý để làm trọn ý bài thơ ?
     A. Dù đi vào sương gió             B. Thôi đành gửi bốn phương
     C. Mong gì về cố hương?                   D. Sao chưa về cố hương
                             E. Sao vào chốn rừng thiêng.
  4. Những đề xuất.
     Qua những gì chúng tôi đã trình bày, chúng tôi xin  đề xuất một vài ý kiến sau:
     4.1. Bộ Giáo dục và Đào tạo.
           - Thứ nhất, chúng tôi tha thiết mong Bộ sớm biên soạn chương trình  và  giáo trình đại học môn trắc nghiệm khách quan để đưa vào giảng dạy cho sinh viên sư phạm.  
           - Thứ hai, mong Bộ sớm áp dụng kiểu bài thi trắc nghiệm khách quan vào công tác tuyển sinh của các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp. Để sau đó không lâu, tiến tới áp dụng cho kì thi tốt nghiệp THPT hàng năm, tạo điều kiện cho các trường đại học tuyển sinh như các nước trên thế giới.
           - Thứ ba, mong Bộ sẽ nhanh chóng thành lập hội đồng ra đề thi trắc nghiệm để có một ngân  hàng đề trắc nghiệm khách quan tiêu chuẩn hoá luôn luôn được bổ sung sử dụng cho các kì thi THPT và tuyển sinh đại học, cao đẳng và trung học chuyên nghiệp.
      4.2. Với trường Đại học sư phạm Huế.
         Trường đại học sư phạm, nhất là phòng quản lí khoa học - đối ngoại của trường sẽ mở chuyên ngành Trắc nghiệm giáo dục ở các lớp cao học.
III. KẾT LUẬN:
     1. Trắc nghiệm hay trắc nghiệm tư luận đều  là những phương tiện khảo sát thành quả học tập hữu hiệu và đều cần thiết, miễn là ta nắm vững phương pháp soạn thảo và công dụng của mỗi loại.
     2. Trắc nghiệm khách quan là một phương pháp tối ưu trong việc đánh giá thành quả học tập và thẩm định năng lực của học sinh trong các kì thi tuyển sinh. Trước sự đổi mới của ngành giáo dục và yêu cầu nâng cao chất lượng giáo dục, chúng tôi, qua chuyên đề này, rất mong  có được tiếng nói đồng cảm của các đồng nghiệp, nhất là các thầy cô giáo dạy văn. 
                                       Hoàng Dục                      


                                      Tài liêu tham khảo:
1. Nguyễn Phụng Hoàng (1966), Phương pháp trắc nghiệm trong kiểm tra và đánh     giá thành quả học tập, Nxb Giáo dục, Đà Nẵng.
2. Huỳnh Huynh (chủ biên) (1973), Trắc nghiệm giáo dục, Nxb Hàn Thuyên, S. Gòn.
          3. Nguyễn Phi Sơn (2003), Vài nét về trắc nghiệm khách quan,
Nội san trường THPT Bán công Nguyễn Hiền, Đà nẵng, tr. 24-25.
          4. Dương Thiệu Tống (1965), Trắc nghiệm và đo lường thành quả học tập,
Nxb Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh.
                                                Ð & Ñ

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét