I. MỞ ĐẦU:
1. Thế kỉ XXI là thế kỉ của công nghệ thông tin và kinh tế tri
thức. Thực tiễn ấy yêu cầu đất nước ta phải khẩn trương đổi mới để hoà nhập
cùng thế giới trên con đường hiện đại hoá. Muốn vậy cần có chiến lược mới về con
người mà nhiệm vụ đào tạo con người
không ai khác hơn là ngành giáo dục.
Nhận thức rõ
nhiệm vụ cao quý, nhưng không kém phần nặng nề và phức tạp này, Bộ Giáo dục và
Đào tạo trong thập niên vừa qua đã không ngừng cải cách, đổi mới từ chương trình
học đến sách giáo khoa; từ phương pháp giảng dạy đến tổ chức thi cử ở các cấp
học bậc học. Việc cải cách đổi mới ấy đã có những thành công rất đáng trân
trọng. Tuy vậy, việc dạy-học và thi cử vẫn còn nhiều chỗ chưa thật sự cải cách
và đổi mới triệt để. Nhìn một cách toàn cục bức tranh giáo dục của chúng ta
hiện nay không phải không có chỗ thiếu tươi tắn, vẫn còn đó đây mắc căn bệnh
thành tích, rơi vào chủ nghĩa hình thức. Đặc biệt việc tổ chức thi cử khá cồng
kềnh và tốn kém; vẫn giữ hình thức thi bài trắc nghiệm tư luận (trắc nghiệm
luận đề) (essay-type test), nên chưa thật sự lượng giá hết năng lực, kiến thức
của học sinh.
2. Từ yêu cầu lịch sử và thực trạng giáo dục, ngành đã có những
bước chuẩn bị rất tích cực cho việc đổi mới thi cử bằng phương pháp trắc nghiệm
khách quan (Objective test). Năm 1986, Đại học sư phạm Hà Nội đã tổ chức hội
thảo trắc nghiệm do Herath hướng dẫn dưới sự tài trợ của UNDP. Kể từ năm 1993
đến nay, Bộ Giáo dục và Đào tạo hoặc một số trường Đại học đã tổ chức nhiều
cuộc hội thảo về loại bài thi này. Bên cạnh đó cũng đã có những công trình khoa
học về trắc nghiệm khách quan:
- Trắc
nghiệm giáo dục do Tiến sĩ Huỳnh Huynh chủ biên, Nxb Hàn Thuyên, Sài
Gòn, 1973.
- Trắc
nghiệm và đo lường thành quả học tập của Tiến sĩ Dương Thiệu Tống, Nxb
Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh, 1995.
- Phương
pháp trắc nghiệm trong kiểm tra và đánh giá thành quả học tập do Tiến
sĩ Nguyễn Phụng Hoàng chủ biên, Nxb Giáo dục, 1996.
Và trong năm học
2004 - 2005, Bộ ra thông báo thi tuyển
vào đại học, cao đẳng và trung học chuyên nghiệp, môn tiếng Anh bằng hình thức
trắc nghiệm khách quan; nhưng rồi do dư luận của học sinh và phụ huynh nên tạm
đình hoãn không thực hiện nữa.
3. Riêng với môn ngữ văn, việc áp dụng bài
thi trắc nghiệm khách quan là một vấn đề nan giải. Bởi lẽ, cho đến nay những ý
kiến về cách thức thi cử này vẫn chưa có được một sự đồng thuận. Có ý kiến cho
rằng, văn chương không thể áp dụng trắc nghiệm khách quan vì không đo lường
được năng lực cảm thụ, kĩ năng diễn đạt hành văn, nhất là phong cách nghệ thuật
của học sinh. Lại có ý kiến, trắc nghiệm khách quan chỉ có thể áp dụng cho các
phân môn tiếng Việt, làm văn hay các bài văn học sử, tác gia và tác phẩm,...
Theo thiển ý của chúng tôi, dù văn chương
có đặc trưng riêng của nó, nhưng không thể không áp dụng được kiểu bài thi trắc
nghiệm khách quan. Trái lại, bài thi trắc nghiệm khách quan cũng có khả năng
đánh giá năng lực cảm thụ, kĩ năng hành văn và phong cách của học sinh, nếu nắm
chắc mục đích trắc nghiệm và có những câu trắc nghiệm tốt. Nói như thế chúng
tôi không có ý đề cao quá mức trắc nghiệm khách quan. Trắc nghiệm khách quan là
hình thức kiểm tra đánh giá tối ưu chứ không phải là duy nhất đúng như Tiến sĩ Dương
Thiệu Tống viết: “Chắc chắn nó không là
hình thức kiểm tra, đánh giá duy nhất và nó cũng không thể thay thế hoàn toàn
loại trắc nghiệm luận đề trong các trường học tương lai. Cả hai đều bổ túc cho
nhau, tuỳ theo nhu cầu, mục tiêu khảo sát, vì loại kiểm tra đánh gía nào cũng
có những ưu khuyết điểm riêng của nó cả” (Trắc nghiệm và đo lường thành quả
học tập, Trường Đại học Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh, 1995, tr. 1-2).
Hơn nữa, trên tinh thần: “xây dựng chương trình ngữ văn theo nguyên
tắc tích hợp – tích hợp đọc văn với lí luận văn học, lịch sử văn học, tri thức
văn hoá, tích hợp lí luận giao tiếp với kĩ năng tư duy; óc suy lí, chặt chẽ với
hình tượng bóng bẩy,... (Báo Giáo dục và Thời đại, số 69, ra ngày 8-6-2002,
tr. 8) và phương châm lấy học sinh làm trung tâm, học sinh là chủ thể tiếp
nhận; thì việc vận dụng kết hợp hai hình thức trắc nghiệm là hoàn toàn phù hợp.
Vì chúng tôi thiết nghĩ, cái nguyên tắc
tích hợp nêu trên là sự tích hợp của nhiều kĩ năng nhiều tri thức, nên trắc
nghiệm tư luận khó có thể lượng giá hết được mà chỉ có trắc nghiệm khách quan
là thích hợp nhất. Và dạy học theo phương châm lấy học sinh làm trung tâm, khái
niệm trung tâm không chỉ khẳng định học sinh là chủ thể tiếp nhận văn chương mà
còn chủ thể trắc nghiệm và đo lường thành quả học tập của chính mình một cách
khách quan và trung thực nữa.
Do những mục đích
và ý nghĩa trên mà chúng tôi chọn đề tài trắc nghiệm văn chương này, mong góp
một phần nhỏ trong việc thẩm định thành quả học tập môn văn ở nhà trường THPT
một cách khách quan và chính xác nhất.
II. TRẮC NGHIỆM KHÁCH QUAN TỪ LÍ THUYẾT ĐẾN
ỨNG DỤNG:
1.
Lịch sử hình thành và phát triển
1.1. Trắc nghiệm khách quan đã hình thành và phát triển ở phương Tây vào
thế kỉ XIX. Người đi đầu là Francis Galton (Anh), sau đó là Cattell đã vận dụng
trắc nghiệm khách quan vào việc đo lường những đặc điểm năng lực trí tuệ của
con người với mục đích khảo sát những đặc tính cá nhân về di truyền.
Đầu thế kỉ XX, Thorndike lần đầu tiên
dùng trắc nghiệm khách quan để đánh giá thành quả học tập của học sinh. Năm
1904, Alfred Binet, nhà tâm lí học người Pháp, đã nghiên cứu phương pháp trắc
nghiệm khách quan nhằm khảo sát một số học sinh khuyết tật, tâm thần, làm cơ sở
cho việc trắc nghiệm trí thông minh sau này. Năm 1936, Lewis Terman ở Standford University đã hiệu chỉnh và dịch bài
trắc nghiệm của Binet ra anh ngữ, do đó trắc nghiệm này được gọi là trắc nghiệm
trí tuệ.
Khi thế chiến I
nổ ra, hội tâm lí học Mỹ đã soạn thảo những bài trắc nghiệm Alpha và Beta để
tuyển chọn binh sĩ. Đấy là những bài trắc nghiệm khách quan đầu tiên.
1.2. Kể từ năm 1920, trắc nghiệm khách
quan phát triển nhanh chóng, nhất là trắc nghiệm thành quả học tập, được sử
dụng rộng rãi trong các trường học vì tính ưu việt của nó.
- Ở Hoa Kì: Để kiểm tra chất lượng
giáo dục, tổ chức lớn nhất là ETS (Education Testing Services - Dịch vụ trắc
nghiệm giáo dục) chuyên sản xuất các đề thi trắc nghiệm tiêu chuẩn hoá và tổ
chức dịch vụ thi. SAT (Scholatic Aptitde Test - Trắc nghiệm năng lực khoa học)
tổ chức, đánh giá khả năng toán học và khả năng sử dụng ngôn ngữ của học sinh
trung cao, làm cơ sở cho việc tuyển sinh đại học. CLEP (College level
Exammination program - Chương trình thi trình độ đại học đại cương) dùng cho
những người tự học, những người đã nghỉ học đại học đã lâu hoặc những người
muốn miễn một số môn học đại cương. GRE (Graduate Record Examination) dùng để
kiểm tra kiến thức đại học của một số ngành tương ứng để tuyển vào cao học.
TOEFT (Test of English as a Foreinge Language - Trắc nghiệm Anh ngữ với tư cách là một ngoại ngữ) nhằm
cấp chứng chỉ du học đại học ở Hoa Kì và các nước nói tiếng Anh hàng năm.
- Ở Nhật Bản: Hội các đại học quốc
gia đã tổ chức kì thi liên kết JAT
(Joint Achievement Test) để kiểm tra kết quả học tập liên kết, đánh giá trình
độ phổ thông trung học theo phương pháp trắc nghiệm khách quan. Điểm của kì thi
này là cơ sở quan trọng để các trường đại học xét tuyển.
- Ở Thái Lan: Để tuyển sinh đại học,
Thái Lan cũng tổ chức kì thi liên kết JHEEE (Joint Higher Education Entrance
Examination - Thi tuyển sinh đại học liên kết) do Bộ Đại học quản lí. Sau khi
có điểm JHEEE, các viện đại học có thể phỏng vấn thêm hoặc kiểm tra năng
khiếu... tuỳ thuộc vào yêu cầu ngành nghề của mình.
- Ở Trung Quốc: Trung Quốc có cơ quan
đặc trách thi cử giáo dục quốc gia NEEA (National Education Examination
Authrety) sử dụng phương pháp trắc nghiệm khách quan để đánh giá chất lượng học
tập, chất lượng giảng dạy, đánh giá sinh viên và giáo viên,... Trung Quốc đã
thử nghiệm tuyển sinh đại học bằng phương pháp này vào năm 1985 và áp dụng trển
cả nước vào năm 1989. Cũng từ năm 1985, Trung Quốc đã cải cách kì thi tốt
nghiệp THPT bằng trắc nghiệm khách quan và đánh giá toàn diện các môn học.
- Riêng ở Việt Nam: Theo một
số tư liệu, năm 1950, trắc nghiệm khách quan đã được các cơ quan quốc tế sử
dụng nhằm khảo sát khả năng ngoại ngữ của học sinh. Nhưng mãi đến cuối năm 1969
đến đầu năm 1970, trắc nghiệm khách quan mới được đưa vào giảng dạy ở các lớp
cao học tại Đại học sư phạm Sài gòn. Còn ở bậc THPT, năm 1965, môn công dân thi
trắc nghiệm. Năm 1968, môn sử địa thi trắc nghiệm. Năm 1974, các bài thi trắc
nghiệm tiêu chuẩn hoá áp dụng lần đầu tiên cho tất cả các môn thi tú tài ở miền
Nam Việt Nam.
Năm 1986, Đại học sư phạm Hà Nội đã tổ chức hội thảo trắc nghiệm do Herath
hướng dẫn dưới sự tài trợ của UNDP.
2. Vài
nét về lí thuyết trắc nghiệm khách quan:
Về
trắc nghiệm khách quan, các chuyên gia đã hình thành một hệ thống lí thuyết rất
khoa học, từ khâu ra đề đến phân tách, chỉ số phân biệt, giá trị của chúng. Ở
đây chúng tôi không trình bày lại tất cả, chỉ xin được khái quát những nét cơ
bản.
2.1. Loại
trắc nghiệm khách quan đòi hỏi ít về sự phán đoán của người chấm bài. Điểm số
không tuỳ thuộc vào giám khảo. Dùng trắc nghiệm khách quan để lượng giá, người
ta có thể bao trùm một số lớn các chủ đề mà thời gian làm bài hạn định. Loại
trắc nghiệm chủ quan đòi hỏi sự phán đoán của giám khảo khi lượng giá sự trả
lời hoặc làm bài của thí sinh. Đối với loại trắc nghiệm này thời gian ở lớp học
chỉ cho phép trả lời một số ít câu hỏi, vì thường học sinh phải bàn luận về mỗi
câu hỏi khá dài.
2.2.
Các loại trắc nghiệm khách quan: Theo Huỳnh Huynh, các câu hỏi trắc nghiệm
khách quan hiện dùng có thể quy về hai loại:
- Loại trả lời tự do (Trắc nghiệm điền khuyết là
một trường hợp đặc biệt).
- Loại trả lời có giới hạn: 2 trả lời (đúng - hoặc
có-không), Loại nhiều lựa chọn (2 lựa chọn trở lên), loại ghép”. (Trắc nghiệm giáo dục, Nxb Hàn
Thuyên, Sài Gòn, 1973, tr; 22).
Cụ thể có các loại trắc nghiệm khách
quan là:
- Trắc nghiệm có trả lời tự do: Đây loại
trắc nghiệm mà mỗi câu được thể hiện dưới hình thức một câu hỏi trực tiếp hoặc
một lời chỉ dẫn đặc biệt hoặc một phát biểu chưa trọn vẹn. Loại này có thể có
một câu trả lời hoặc nhiều câu trả lời. Học sinh tự tìm câu trả lời. Loại này
khác với trắc nghiệm tư luận ở chiều dài câu trả lời. Câu trả lời của loại trắc
nghiệm này ngắn, thường là một chữ hoặc một câu ngắn.
- Trắc nghiệm điền khuyết: Đây là hình
thức đặc biệt của của loại trắc nghiệm trả lời tự do. Các câu trắc nghiệm điền
khuyết là một mệnh đề hay những phát biểu trong đó các chữ hoặc câu quan trọng
được bỏ trống để học sinh điền vào. Một câu hay một phát biểu có thể chứa một
hoặc nhiều khoảng trống. Những câu có thể không liên hệ nhau hoặc có thể hợp
thành một đoạn. Thường thường một khoảng trống được tính một điểm.
- Loại trắc nghiệm đúng sai: Đây là loại
có hai trả lời, mà hình thức quen dùng nhất là trả lời đúng - sai. Hình thức
tương tự là có - không, cùng nghĩa - trái nghĩa. Loại trắc nghiệm này là một
phương tiện quan trọng để trắc lượng số lượng lớn kiến thức của học sinh chỉ
trong một thời gian ngắn.
- Loại trắc nghiệm có nhiều lựa chọn: Đây
là những câu trắc nghiệm trình bày một vấn đề dưới hình thức một câu hỏi trực
tiếp hoặc phát biểu chưa trọn vẹn và được trả lời bổ sung theo nhiều cách khác
nhau. Thông thường, học sinh phải lựa chọn câu trả lời đúng hay đúng nhất cho
câu hỏi hoặc lựa chọn câu bổ sung đúng hay đúng nhất cho phát biểu chưa trọn.
Trắc nghiệm có nhiều lựa chọn được xem là có giá trị nhất và có tầm áp dụng
rộng rãi nhất trong các hình thức trắc nghiệm khách quan.
- Loại trắc nghiệm ghép đôi (xứng hợp):
Đây là một dạng đặc biệt của trắc nghiệm có nhiều lựa chọn. Nhưng khác ở chỗ:
loại trắc nghiệm ghép đôi gồm nhiều câu xếp đặt thành một cột kèm theo nhiều
câu trả lời xếp thành một cột khác.
2.3. Trắc nghiệm tiêu chuẩn hoá và trắc nghiệm do
giáo viên soạn.
Trắc nghiệm khách
quan tiêu chuẩn hoá là loại trắc nghiệm mà sự điều hành và cách chấm điểm phải
theo những chỉ dẫn đặc biệt. Loại trắc nghiệm này có sẵn những điểm số tiêu
chuẩn mà dựa vào những điểm số này ta có thể so sánh kết quả của một thí sinh
này với kết quả của những thí sinh khác trong một “dân số” tương tự.
Trắc nghiệm do
giáo viên biên soạn là loại trắc nghiệm thường được dùng để lượng giá sự học hỏi
của các em học sinh trong lớp do chính giáo viên ấy phụ trách.
2.4.
Lượng giá một câu trắc nghiệm.
Để có thể đạt
được mục đích đánh giá xếp loại thành quả học tập của học sinh, một bài trắc
nghiệm khách quan thực sự phải chất lượng. Một bài trắc nghiệm hay bao gồm
những câu trắc nghiệm hay. Một câu trắc nghiệm hay khi nó có thể đo lường một
cách chính xác, trung thực và hữu hiệu thành quả học tập của học sinh. Vì vậy,
khi ra trắc nghiệm, người thầy phải cho học sinh ở nhiều lớp làm bài, rồi thống
kê điểm giỏi điểm kém để lượng giá chúng (test – retest). Để lượng giá một câu
trắc nghiệm thực sự hay hay không, người ta có thể áp dụng nhiều công thức như:
công thức SPEARMAN – BROWN, công thức STANLEY,
công thức KUDER – RICHARDSON
. Đây là những công thức dùng để xác định độ tin cậy, giá trị của loại trắc
nghiệm tiêu chuẩn hoá. Với loại trắc nghiệm ở lớp học, người thầy ra đề, chỉ
cần áp dụng hai công thức sau:
- Công thức tính chỉ số phân
biệt học sinh giỏi và học sinh kém.
ĐG
- ĐK
D
= -------------- x 100%
N
(D:
chỉ số phân biệt, ĐG: số HS giỏi trả lời đúng, DDK: số HS kém trả lời đúng, N:
số học sinh trong mỗi nhóm).
Một
câu trắc nghiệm hay khi tất cả học sinh giỏi trả lời đúng và tất cả học sinh
kém trả lời sai, chỉ số phân biệt là 100%.
-
Công thức tính chỉ số khó.
ĐG
+ ĐK
H
= ------------- x 100%
2N
(ĐG và ĐK số học sinh giỏi và học sinh kém trả
lời trả lời đúng, H là chỉ số khó, N là số học sinh trong mỗi nhóm).
Chỉ số khó là tỷ lệ HS thuộc một nhóm
trả lời đúng một câu trắc nghiệm khách quan.
3.
Vận dụng trắc nghiệm vào đánh giá thành quả học tập bộ môn văn.
3.1. Vận
dụng trắc nghiệm vào bài kiểm tra 15 phút.
Thông thường bài
tập kiểm tra 15 phút sử dụng trắc nghiệm tư luận mất khá nhiều thời gian làm
bài ảnh hưởng đến thời lượng giảng bài và chấm bài cũng khá mất công. Sử dụng
trắc nghiệm khách quan có những lợi điểm: chủ động thời gian, kiểm tra được
nhiều kiến thức, học sinh có thể chấm bài bằng cách tráo bài cho nhau. Kiểm tra
15 phút, chúng tôi thường ra 10 câu với 3 loai trắc nghiệm: điền khuyết, đúng –
sai và ghép đôi.
Thí dụ 1 (trắc nghiệm đúng-sai):
Lời chỉ dẫn: Đọc kĩ những câu sau đây và
ghi những hàng để trống ở cột bên phải chữ Đ (đúng) hoặc S (sai) nếu xét là
đúng hoặc sai.
1.Thuyết “tài mệnh tương đố” trong
truyện Kiều
là của Nho giáo ___________
(1)
2. Triết lí
truyện Kiều là mượn ở Phật giáo. ___________
(2)
3. “Kiếp này trả
nợ chưa xong
Làm chi thêm một nợ chồng kiếp sau”
là hai câu thơ trong truyện Kiều nói lên
cái
nghiệp của nàng Kiều. ___________
(3)
4. Chữ “nghiệp”
trong truyện Kiều dựa vào luật
nhân quả của Nho giáo. ___________
(4)
5. Lớp nhà Nho
khuyên rằng:
“.............đàn bà chớ kể Thuý Vân, Thuý
Kiều”
vì cho rằng truyện Kiều là một dâm thư ___________ (5)
Thí dụ 2 (trắc nghiệm ghép):
Lời chỉ dẫn: Trong cột thứ nhất là những
câu thơ nói lên thái độ trước cảnh nghèo của các tác giả, tên tác giả được xếp
trong cột thứ hai. Hãy ghép đúng tác giả cho những câu thơ ấy bằng cách chỉ ghi
mẫu tự vào khoảng trống dành sẵn ở cột thứ nhất.
_________ 1. Số
khả bỉ rồi thời lại thái
Cơ
thường đông hết hẳn sang xuân _________ 2. Thôi
cũng biết cùng thông là mệnh cả
Cũng
đừng đem hình dịch lại cần chi _________ 3. Sống
lâu lâu để làm gì nhỉ Lâu
để mà xem cuộc chuyển vần
A.
Nguyễn Khuyến
B.
Trần Tế Xương
B.
Trần Tế Xương
C.
Nguyễn Công Trứ
D.
Cao Bá Quát
E. Tản Đà
3.2. Vận
dụng trắc nghiệm khách quan vào bài kiểm 1 tiết.
Với bài kiểm tra
1 tiết trở lên, chúng tôi kết hợp trắc nghiệm tư luận với trắc nghiệm khách
quan tính theo tỷ lệ điểm 4/6 (tư luận: 4, trắc nghiệm: 6). Chúng tôi thường sử
dụng loại trắc nghiệm có nhiều lựa chọn với các hình thức:
Thí dụ:
1. Tác
phẩm nào sau đây KHÔNG do Tản Đà sáng tác?
A. Giấc
mộng con B. Giấc mộng lớn C. Thề non nước
D. Liêu
trai chí dị E.
Khối tình con.
Đọc đoạn thơ sau
đây để trả lời các câu hỏi 2 và 3.
Phong trần kiếp đã chịu này
Lầm tham lại có thứ này bằng hai.
Phận sao bạc chẳng
vừa thôi?
Khăng khăng buộc mãi lấy người hồng nhan!
Đã đành túc trái tiền
oan...
2. Đoạn này trong
truyện Kiều của Nguyễn Du diễn tả tâm trạng của Thuý Kiều:
A. bị Tú
Bà làm nhục B. theo Sở
Khanh trốn đi
C. bị
hành hạ ở nhà Hoạn Thư D. bị sa vào lầu
xanh lần nữa
E. được
cứu sống ở sông Tiền Đường
3. Ý chính của
đoạn thơ trên muốn kiểm chứng điều nào do tác giả đưa ra?
A.
thuyết tài mệnh tương đố B.
luật bỉ sắc tư phong
C. luật
nhân quả của nhà Phật D. chữ
mệnh của nhà Nho
E. tất
cả đều đúng.
3.3. Vận
dụng trắc nghiệm khách quan bài tuyển chọn HSG.
Thực tiễn dạy văn
ở các trường chuyên thường đòi hỏi phải thành lập đội tuyển học sinh giỏi để
bồi dưỡng chuẩn bị cho các kì thi học sinh giỏi các cấp, chúng ta có thể áp
dụng bài thi trắc nghiệm khách quan có chỉ số khó thấp (các câu trắc nghiệm
phải khó để chỉ có một số học sinh trả lời đúng).
Chúng tôi sử dụng
các hình thức trắc nghiệm khách quan:
- Trắc
nghiệm có trả lời tự do. Đây là loại trắc nghiệm đòi hỏi trí thông minh, không
thể đoán mò và học thuộc lòng. Trắc nghiệm có trả lời tự do có 3 hình thức ra
đề: một câu hỏi trực tiếp, một lời chỉ dẫn đặc biệt và một phát biểu chưa trọn
gồm một hay nhiều câu trả lời.
Thí dụ:
Lời chỉ dẫn: Viết vào ngoặc đơn ở bên
phải của mỗi câu một từ hoặc một cụm từ sao cho câu trọn nghĩa và hay.
1. Nói
nghệ thuật tức là nói đến............ ( ) 1
2. Thơ
như con sóng thời đại cứ vỗ hoài vào bờ,
nhưng thơ làm cho con người............... ( ) 2
3. Với
nhà thơ, bạn đọc là................. ( ) 3
4. “Mùa
hạ đi rồi em ở đây
Con ve kêu nát cả ................” ( ) 4
5. Một
sự vĩnh hằng
“Ngày mẹ tôi bước vào tuổi Bảy ba
Bà con mang cổ quan tài đến tặng
Mẹ tôi đem đựng.......................... ( ) 5
Rồi bước ra vườn tưới nước cho hoa”
(Trần
Kính, Văn nghệ, 1986)
- Loại
trắc nghiệm điền khuyết: mục đích kiểm tra trí nhớ của học sinh về những ý
kiến, những nhận định hay có thể vận dụng trong bài trắc nghiệm tư luận.
Thí dụ:
Lời chỉ dẫn: Khi trả lời phải viết ngay
ở các hàng phía dưới có cùng số với những chữ đã bỏ trống sau đây:
“Tôi
quyết rằng trong lịch sử thi ca Việt Nam chưa bao
giờ có một thời đại phong phú như thời đại này. Chưa bao giờ người ta thấy xuất
hiện cùng một lần một hồn thơ ......(1)..... như Thế Lữ, mơ màng như
.......(2)......, ........(3)...... như Huy Thông, trong sáng như
.......(4)......., ......(5) ....... như
Huy Cận, .......(6) như Nguyễn Bính, .......(7) ...... như Chế Lan
Viên,... và thiết tha, .......(8)...... băn khoăn như Xuân Diệu.”
__________(1) ___________(2) ___________(3) ___________(4) __________(5) ___________(6) ___________(7) ___________(8)
- Loại
câu trắc nghiệm có nhiều lựa chọn:
Thí dụ:
1. “Nếu thơ văn Trần Tế Xương phản ánh xã hội
Việt Nam qua tầng lớp thị
dân đang bị phân hoá của thời Pháp thuộc, thì thơ văn của ông đã phản ánh được
xã hội nông thôn Việt Nam
ngoài vòng ảnh hưởng của văn minh Tây phương”.
Đó là một câu
nhận định về nhà thơ nào?
A.
Chu Mạnh Trinh B.
Nguyễn Đình Chiểu
C.
Tản Đà D. Nguyễn Khuyến
E.
Không câu nào đúng.
2. Câu
2, 3 và 4:
Thu Điếu
Ao thu lạnh lẽo nước trong veo
Một chiếc thuyền câu
bé tẻo teo
Sóng biếc theo làn
hơi gợn tí
Lá vàng trước gió khẽ
đưa vèo
Từng mây lơ lửng trời
xanh ngắt
Ngõ trúc quanh co
khách vắng teo
Tựa gối ôm cần lâu
chẳng được
Cá đâu đớp động dưới
chân bèo.
2. Chấp nhận bài thơ luật Đường có nguyên
tắc sau:
-
Hai câu đề: giới thiệu tổng quát.
-
Hai câu thực: nói rõ về đề.
-
Hai câu luận: bàn về đề.
-
Hai câu kết: trở về đề.
Trong
bài này hai câu nào đã xa nguyên tắc nêu trên nhất?
A. hai câu kết B. hai câu luận
C. hai câu thực D. hai câu đề
E. Bốn
câu A, B, C, D sai cả.
3. Những hình ảnh trong bài này có tính
chất nào?
A. Có tính ước lệ. B. Thường
gặp trong Đường thi.
C. Được xếp đặt và chọn lựa kĩ. D. Đều mờ nhạt, không đi vào chi tiết.
E. Đều nhỏ bé, làm nổi bật nỗi cô đơn.
4. Bốn câu thơ cuối tác giả đã dàn ý theo
lối nào?
A. Cảnh từ cao xuống thấp B. Cảnh từ xa đến gần
C.
Từ yên tĩnh đột ngột sang động D.
Cả ba câu trên đều đúng
E.
Cả ba câu trên đều sai.
5. Sau
đây là 3 câu thơ còn bỏ trống:
Muỗi vắt nhiều hơn cỏ
Chướng khí mù hơi
sương
Thân không là lính
chiến
........................................
Trong 5
câu dưới đây, câu nào hợp nhất về ý để làm trọn ý bài thơ ?
A.
Dù đi vào sương gió B. Thôi đành
gửi bốn phương
C.
Mong gì về cố hương? D.
Sao chưa về cố hương
E.
Sao vào chốn rừng thiêng.
4.
Những đề xuất.
Qua
những gì chúng tôi đã trình bày, chúng tôi xin
đề xuất một vài ý kiến sau:
4.1. Bộ Giáo dục và Đào tạo.
- Thứ nhất, chúng tôi tha thiết mong Bộ
sớm biên soạn chương trình và giáo trình đại học môn trắc nghiệm khách quan
để đưa vào giảng dạy cho sinh viên sư phạm.
- Thứ hai, mong Bộ sớm áp dụng kiểu bài
thi trắc nghiệm khách quan vào công tác tuyển sinh của các trường đại học, cao
đẳng, trung học chuyên nghiệp. Để sau đó không lâu, tiến tới áp dụng cho kì thi
tốt nghiệp THPT hàng năm, tạo điều kiện cho các trường đại học tuyển sinh như
các nước trên thế giới.
- Thứ ba, mong Bộ sẽ nhanh chóng thành lập
hội đồng ra đề thi trắc nghiệm để có một ngân hàng đề trắc nghiệm khách quan tiêu chuẩn hoá
luôn luôn được bổ sung sử dụng cho các kì thi THPT và tuyển sinh đại học, cao
đẳng và trung học chuyên nghiệp.
4.2. Với
trường Đại học sư phạm Huế.
Trường đại học sư phạm, nhất là phòng quản
lí khoa học - đối ngoại của trường sẽ mở chuyên ngành Trắc nghiệm giáo dục ở các lớp cao học.
III. KẾT LUẬN:
1. Trắc nghiệm hay trắc nghiệm tư luận đều là những phương tiện khảo sát thành quả học
tập hữu hiệu và đều cần thiết, miễn là ta nắm vững phương pháp soạn thảo và
công dụng của mỗi loại.
2. Trắc nghiệm khách quan là một phương pháp tối ưu trong việc đánh giá
thành quả học tập và thẩm định năng lực của học sinh trong các kì thi tuyển
sinh. Trước sự đổi mới của ngành giáo dục và yêu cầu nâng cao chất lượng giáo
dục, chúng tôi, qua chuyên đề này, rất mong
có được tiếng nói đồng cảm của các đồng nghiệp, nhất là các thầy cô giáo
dạy văn.
Hoàng Dục
Tài liêu tham khảo:
1. Nguyễn Phụng Hoàng (1966), Phương pháp trắc nghiệm trong kiểm tra và
đánh giá thành quả học tập, Nxb
Giáo dục, Đà Nẵng.
2. Huỳnh Huynh (chủ biên) (1973), Trắc nghiệm giáo dục, Nxb Hàn Thuyên, S. Gòn.
3. Nguyễn Phi Sơn
(2003), Vài nét về trắc nghiệm khách quan,
Nội san trường THPT Bán công Nguyễn
Hiền, Đà nẵng, tr. 24-25.
4. Dương Thiệu
Tống (1965), Trắc nghiệm và đo lường
thành quả học tập,
Nxb Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh.
Ð & Ñ
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét