Chiều nay, anh Nguyễn Tuấn, một phụ huynh ghé thăm và tặng cho mình một bài thơ của Hoàng Lộc. Mình rất cảm kích! Không chỉ vì bài thơ mà vì tấm lòng của người tặng qua chữ viết tay nắn nót. Mình đọc và cảm thấy chất ngất ngưởng, bi tráng cứ vang lên
trong từng từ đến nỗi mình cũng chếnh choáng thơ, chếnh choáng đời. Vì thế, mình post lên cho các bạn cùng thưởng thức. Đặc biệt, riêng tặng Trần Thành vì bạn cũng say thơ và làm cho thơ say. Và cũng chân thành gửi cho Hùng Kiện vì bạn: “Rượu chong khắc khoải chờ-Người về, ly ngất ngưởng”.
BỮA SAY GHÉ THĂM CHÙA ÔNG
Quan Vân Trường mặt đỏ cũng thành danh,
Ta đỏ mặt hơn Ông, đời lại hỏng.
trong từng từ đến nỗi mình cũng chếnh choáng thơ, chếnh choáng đời. Vì thế, mình post lên cho các bạn cùng thưởng thức. Đặc biệt, riêng tặng Trần Thành vì bạn cũng say thơ và làm cho thơ say. Và cũng chân thành gửi cho Hùng Kiện vì bạn: “Rượu chong khắc khoải chờ-Người về, ly ngất ngưởng”.
BỮA SAY GHÉ THĂM CHÙA ÔNG
Quan Vân Trường mặt đỏ cũng thành danh,
Ta đỏ mặt hơn Ông, đời lại hỏng.
Ông cốt cách Quỳnh tương, ta hồ đồ rượu đế,
Cuộc trăm năm, đến thế hoang tàn.
Cuộc trăm năm, đến thế hoang tàn.
Kinh Châu, Kinh Châu mờ hơi sương,
Lòng Ông lòng ta ai biết được!
Lòng Ông lòng ta ai biết được!
Ngời khí thanh long cũng sụt sùi ngọn bút,
Chuyện nghìn xưa thầm hỏi chuyện mai sau.
Chuyện nghìn xưa thầm hỏi chuyện mai sau.
Ông còn đất để về, ta biết về đâu?
Mịt mịt trời sương, mờ mờ nhân thế,
Mịt mịt trời sương, mờ mờ nhân thế,
Châu với quận mịt mờ tri kỷ,
Mảnh trăng suông bạc thếch chén rượu mời.
Chốn trần gian còn tốc gió bốn trời,
Mảnh trăng suông bạc thếch chén rượu mời.
Chốn trần gian còn tốc gió bốn trời,
Trên đất lạ còn rung bờm xích thố.
Ông tử vi thần, thơm lừng thiên cổ,
Ông tử vi thần, thơm lừng thiên cổ,
Ta thơ cuồng vất vưởng mỗi tờ mây.
Để có lần ta chếnh choáng qua đây,
Chén rượu dỏm tưởng chừng không gượng nổi.
Ông linh hiển mặt mày Ông đỏ chói,
Đỏ mặt mình, ta gục dưới chân Ông.
Hoàng Lộc
Hoàng Lộc là nhà thơ miền Nam trước 1975, đã thành danh với rất nhiều bài thơ hay. Nhà thơ quê ở Hội An, Quảng Nam. Nay đang định cư tại Hoa Kỳ. Bài thơ này cảm tác trong một cơn say khi cùng bạn bè chén bạn chén tôi, rồi ngất ngưởng đến Chùa Ông theo sự thôi thúc của kí ức tuổi thanh xuân. Nhưng người viết không nói gì đến ngày xưa, cái tôi trữ tình của nhà thơ không hoài niệm cái tôi thơ ấu. Đứng ở chùa Ông, nhà thơ chiêm vọng tượng Quan Vân Trường mà xúc cảm thành thơ. Người viết lấy cái tứ “mặt đỏ” làm điểm tựa cảm xúc để tư tưởng thơ phát triển. Nhà thơ ngắm tượng người xưa mà thốt nên lời kính phục tự đáy lòng. Quan Vân Trường “mặt đỏ” là “khí hạo nhiên”, tính cách con người tuyệt nghĩa, cho nên “Ông cốt cách Quỳnh tương”, “Ông tử vi thần, thơm lừng thiên cổ”; còn ta “đỏ mặt” vì men rượu tìm quên, quên “ta”, con người “hồ đồ rượu đế”, “Ta thơ cuồng vất vưởng mỗi tờ mây”. Cái tứ ấy tạo cấu trúc đối lập trong bài thơ. Bài thơ lập ý bằng sự đối lập giữa: cao cả-thấp hèn, thành danh-không thành danh, tôn vinh thần tượng-hạ bệ thần tượng, tự tôn-tự ti,... mà ngậm ngùi thân phận con người, cho dù Ông và tôi da mặt đỏ màu như nhau, thậm chí tôi mặt đỏ hơn ông nữa! Nhưng nhìn sâu vào bên trong, Ông “mặt đỏ”, còn tôi “đỏ mặt”. Bản chất khác nhau nên Ông “mặt đỏ cũng thành danh”, ông “tử vi thần thơm lừng thiên cổ”, còn tôi “đỏ mặt hơn Ông, đời lại hỏng”. Nhà thơ nhìn lại thân thế mình, tự thức nhận sự trống rỗng, hoang phế của “Cuộc trăm năm, đến thế hoang tàn” của đời mình. Để từ đó người nay nhận ra:
Để có lần ta chếnh choáng qua đây,
Chén rượu dỏm tưởng chừng không gượng nổi.
Ông linh hiển mặt mày Ông đỏ chói,
Đỏ mặt mình, ta gục dưới chân Ông.
Hoàng Lộc
Hoàng Lộc là nhà thơ miền Nam trước 1975, đã thành danh với rất nhiều bài thơ hay. Nhà thơ quê ở Hội An, Quảng Nam. Nay đang định cư tại Hoa Kỳ. Bài thơ này cảm tác trong một cơn say khi cùng bạn bè chén bạn chén tôi, rồi ngất ngưởng đến Chùa Ông theo sự thôi thúc của kí ức tuổi thanh xuân. Nhưng người viết không nói gì đến ngày xưa, cái tôi trữ tình của nhà thơ không hoài niệm cái tôi thơ ấu. Đứng ở chùa Ông, nhà thơ chiêm vọng tượng Quan Vân Trường mà xúc cảm thành thơ. Người viết lấy cái tứ “mặt đỏ” làm điểm tựa cảm xúc để tư tưởng thơ phát triển. Nhà thơ ngắm tượng người xưa mà thốt nên lời kính phục tự đáy lòng. Quan Vân Trường “mặt đỏ” là “khí hạo nhiên”, tính cách con người tuyệt nghĩa, cho nên “Ông cốt cách Quỳnh tương”, “Ông tử vi thần, thơm lừng thiên cổ”; còn ta “đỏ mặt” vì men rượu tìm quên, quên “ta”, con người “hồ đồ rượu đế”, “Ta thơ cuồng vất vưởng mỗi tờ mây”. Cái tứ ấy tạo cấu trúc đối lập trong bài thơ. Bài thơ lập ý bằng sự đối lập giữa: cao cả-thấp hèn, thành danh-không thành danh, tôn vinh thần tượng-hạ bệ thần tượng, tự tôn-tự ti,... mà ngậm ngùi thân phận con người, cho dù Ông và tôi da mặt đỏ màu như nhau, thậm chí tôi mặt đỏ hơn ông nữa! Nhưng nhìn sâu vào bên trong, Ông “mặt đỏ”, còn tôi “đỏ mặt”. Bản chất khác nhau nên Ông “mặt đỏ cũng thành danh”, ông “tử vi thần thơm lừng thiên cổ”, còn tôi “đỏ mặt hơn Ông, đời lại hỏng”. Nhà thơ nhìn lại thân thế mình, tự thức nhận sự trống rỗng, hoang phế của “Cuộc trăm năm, đến thế hoang tàn” của đời mình. Để từ đó người nay nhận ra:
Ông còn đất để về, ta biết về đâu?
Mịt mịt trời sương, mờ mờ nhân thế,
Châu với quận mịt mờ tri kỷ,
Mảnh trăng suông bạc thếch chén rượu mời.
Giọng thơ bi phẫn nén chứa cảm cả một trời tang thương trong một giọt nước mắt đang khô! Cũng là con người sao mỗi người lại khác nhau đến thế. Thiên mệnh ư? Chả lẽ như vậy? Hay vì tôi: “thơ cuồng vất vưởng”. Nếu thế làm gì có chuyện Ông đỏ mặt còn tôi mặt đỏ. Mặt đỏ là sắc mặt của con người tự nhận thức, khao khát làm những điều tốt đẹp, có ý nghĩa, nhưng bất lực. Mặt đỏ là tự thấy xấu hổ, nhưng đó sự xấu hổ, cái thẹn của con người nhân cách. Vì thế mà bài thơ kết thúc: Ông linh hiển mặt mày Ông đỏ chói - Đỏ mặt mình ta gục dưới chân ông. Bài thơ bi tráng là ở chỗ ấy!
Hoàng Dục
Hoàng Dục
Nên đổi "mặt đỏ" thành "đỏ mặt" trong câu: Bản chất khác nhau nên Ông “mặt đỏ cũng thành danh”, ông “tử vi thần thơm lừng thiên cổ”, còn tôi “mặt đỏ hơn Ông, đời lại hỏng”.
Trả lờiXóa