Chủ Nhật, 6 tháng 5, 2012

40. ĐẶC TRƯNG VĂN ChƯƠNG TỰ LỰC VĂN ĐOÀN


ĐẶC TRƯNG VĂN CHƯƠNG TỰ LỰC VĂN ĐOÀN QUA TRUYỆN NGẮN HAI VẺ ĐẸP CỦA NHẤT LINH.
A.   MỞ ĐẦU:
    1. “Tự Lực văn đoàn” ra đời năm 1933. Đây là trào lưu văn học lãng mạn có những đóng góp đáng kể cho quá trình hiện đại hoá văn học dân tộc. Trong diễn trình hình thành và phát triển của nó, có thể có những biến thiên phức tạp, nhưng nhìn chung, Tự Lực văn đoàn vẫn  nằm trong văn mạch dân tộc, làm giàu có thêm cho văn học dân tộc và nhanh chóng đưa văn học dân tộc từ khu vực chuyển sang văn học nhân loại.

     2. Tuy nhiên, ở bình diện tiếp nhận, Tự Lực văn đoàn đã có lúc không được nhìn bằng ánh mắt thiện cảm và mĩ cảm. Điều đáng mừng là trong những năm gần đây, trào lưu văn học này đã được nhìn nhận lại, định giá lại một cách khách quan và khoa học hơn. Các nhà nghiên cứu phê bình và các nhà văn học sử đã “thanh lọc” những gì chưa được và những gì là được của Tự Lực văn đoàn để trả lại vị trí, vai trò và giá trị của nó trong đời sống văn học nước nhà.
     3. Chính từ không khí cởi mở nhưng rất khoa học văn học này, chúng tôi  có nhiều điều kiện để tiếp cận và nghiên cứu Tự Lực văn đoàn hơn. Và khi nghiên cứu, chúng tôi cũng không mong cầu gì hơn là góp thêm một tiếng nói, một góc nhìn nhỏ bé hầu làm sáng rõ hơn giá trị của văn phái lãng mạn 1930 – 1945 này.
       a. Góc nhìn và tiếng nói của chúng tôi là: tìm hiểu đặc trưng văn chương Tự Lực văn đoàn, để từ đó, hiểu thêm về đặc trưng của văn học nói chung. Nói cách khác là qua Tự lực văn đoàn tìm hiểu bản chất, quy luật riêng của văn chương trong sự hình thành và phát triển của nó.   
       b.  Để khẳng định đặc trưng văn chương Tự Lực văn đoàn, chúng tôi tiếp cận từ hai hướng, một là xem nó là một hoạt động nhận thức, một hiện tượng ý thức, một hình thái ý thức xã hội đặc thù là nghệ thuật ngôn từ; hai là xem văn chương Tự Lực văn đoàn là một hình thức tổ chức đặc biệt của ngôn từ, ngôn từ được dùng vào chức năng thi ca, thi pháp ngữ điệu.
       c. Tuy vậy, như trên đã nói, chúng tôi không có tham vọng khám phá hết thảy các đặc trưng của văn chương của Tự Lực văn đoàn. Chúng tôi chỉ đi sâu tìm hiểu hai vấn đề: tính hiện thực và tính nhân bản của văn chương Tự Lực văn đoàn mà thôi. Và chúng tôi cũng không lấy toàn bộ tác phẩm văn chương của trào lưu văn học này làm đối tượng khảo sát mà chỉ gói gọn vào truyện ngắn “Hai vẻ đẹp” của Nhất Linh, tất nhiên có sự liên hệ đối sánh với một số tác phẩm khác nữa.
      d. Truyện ngắn “Hai vẻ đẹp” là một truyện giản dị và giàu tính trữ tình. Truyện kể về Doãn, một trí thức – hoạ sĩ băn khoăn trước hai vẻ đẹp: nghệ thuật là một sinh thể có hồn hay  chỉ là một cơ thể không có sức sống, sự sống; nghệ thuật thuần tuý hay hướng về dân quê. Doãn sinh ra trong một gia đình nghèo và sớm mồ côi, anh được bà Thượng nhận làm con nuôi và cho ăn học tử tế. Anh sang Pháp học luật nhưng lại say mê hội hoạ. Khi về nước, với tấm bằng Cử nhân luật, anh không ra làm quan mà ở yên nơi nhà quê và mê mải đắm mình trong thế giới màu sắc và đường nét. Nhưng rồi anh nhận ra, tranh của anh như thiếu chất thực nên không có hồn. Anh thức ngộ, bấy lâu nay anh như sống ở một thế giới khác xa lạ, nay anh phải trở về với đời sống dân quê, lấy đời sống dân quê làm đối tượng thẩm mĩ cho tranh của mình. Nghĩ đến đó Doãn thấy mình như đang trở về quê hương, về với mẹ, tưởng như mẹ vẫn còn đấy đang vò võ bên cổng ngóng đợi anh về đã lâu. 
B. NỘI DUNG:        
   I. Tính hiện thực:
     1. Khi thành lập, Tự lực văn đoàn đã đưa ra tôn chỉ sáng tạo của họ gồm 10 điều, đăng ở báo “Phong Hoá”, số 101, ra ngày 8 - 6 - 1934. Có thể đúc kết chủ trương văn chương của họ như sau:
       a. Tuyệt đối không dùng lối văn quá cầu kì kênh kiệu chịu ảnh hưởng nhiều của Hán văn, đọc nghe khó hiểu. Lời văn phải thiết thực chứ không chú trọng đến lối từ chương hoa mỹ.
       b. Tiểu thuyết phải viết bằng văn xuôi, không dùng lối văn vần. Hành văn cần sáng sủa, rõ ràng, lời văn phải bình dị, nhẹ nhàng khiến cho người đọc có thể tìm được nhiều hứng thú trong việc đọc sách.
       c. Văn nghệ phải dựa trên sự quan sát thực tế, đi sát với tinh thần phục vụ nhân sinh một cách thiết thực và có hiệu quả.
       d. Người viết truyện không những cần phải có một chính trị rõ rệt mà còn là một nhà quan sát tinh tưòng, một nhà xã hội học, một nhà tâm lí học. Người viết lại phải diễn tả một cách tỉ mỉ những cảm nghĩ chân thật và những điều mình đã thấy.
        Trung thành với mục đích tôn chỉ ấy, Tự Lực văn đoàn đã để lại một khối lượng tác phẩm đồ sộ, phong phú về đề tài và thể loại; gắn liền với những tên tuổi: Nhất Linh, Khái Hưng, Hoàng Đạo, Thạch Lam, Trần Tiêu, Thế Lữ, Xuân Diệu, Tú Mỡ. Tuy nhiên, chủ trương “văn nghệ phải dựa trên sự quan sát thực tế, đi sát với tinh thần phục vụ nhân sinh một cách thiết thực và có hiệu quả” thì cần phải xem lại.
    2. Cần xem lại, bởi xét về phương diện lịch sử  trong thế giới nghệ thuật của Tự Lực văn đoàn nói chung và tác phẩm Hai vẻ đẹp nói riêng, lịch sử xã hội đã bị trừu tượng hoá. Thế giới nghệ thuật của họ chỉ còn là thế giới nội tâm, lich sử cũng chỉ quy về ở lịch sử tinh thần. Có thể nói thế này, hiện thực khách quan đã được lí tưởng hoá thông qua hiện thực chủ quan, hiện thực tâm hồn của các nhà văn lãng mạn. Đấy là phương thức sáng tạo của các nhà văn thuộc trào lưu lãng mạn phương Tây và Tự Lực văn đoàn.
    Trong Hai vẻ đẹp, Nhất Linh cũng đã cấu trúc và vận hành truyện ngắn của ông theo phương thức sáng tạo lãng mạn ấy. Nhà văn không tái hiện hiện thực mà tái tạo theo tiêu cự tâm thức của chính mình thông qua nhân vật Doãn. Nhân vật Doãn là một nhân vật tư tưởng, hoá thân của Nhất Linh và có thể là của các nhà văn Tự Lực văn đoàn khác. Vì thế, qua Doãn, chúng ta có thể tìm hiểu đặc trưng văn chương Tự Lực văn đoàn. Trong tác phẩm, nhà văn đã để Doãn tốt nghiệp trường Luật nhưng không đi theo con đường hoạt động xã hội mà quay về hoạt động nội tâm bằng nghệ thuật hội hoạ ( Nhất Linh hay Ngọc trong “Hồn bướm mơ tiên” của Khái Hưng cũng thế). Và chỉ với nghệ thuật, nhân vật Doãn mới được sống trong cảm giác hạnh phúc, hạnh phúc được vẽ, được sống giữa vương quốc của nghệ thuật hội hoạ. Doãn quan niệm: “Chàng cho vẽ tranh là một sự cần thiết cho tâm hồn chàng, chứ không phải để lấy tiếng khen”. Doãn vẽ tranh không phải để bán và cũng không để triễn lãm “Thỉnh thoảng, nể lới anh em, chàng đem những bức tranh đó về Hà Nội trưng bày một vài hôm.” Quan niệm của Doãn có khác gì “Tôi là con chim đến từ núi lạ. Ngứa cổ hót chơi” (Xuân Diệu) hay “Cây đàn muôn điệu” (Thế Lữ).
     Bình tâm mà xét, quan niệm của Doãn vẫn có hạt nhân hợp lí của nó. Hiện thực của văn chương trước hết là hiện thực của tâm hồn người nghệ sĩ. Sáng tạo, đầu tiên là người nghệ sĩ phóng chiếu và trải mở tâm hồn mình vào tác phẩm với nhiều chiều kích khác nhau. Phát huy biên độ, cường độ, chiều sâu tâm linh cũng chính là phát huy  bản ngã, cá tính sáng tạo của người nghệ sĩ. Người nghệ sĩ trong hành trình sáng tạo theo quy luật của cái đẹp bao giờ cũng từ cái riêng mà đến với cái chung. Chỉ có điều cái riêng không thể khuynh loát, áp đảo cái chung mà phải có tính khái quát trùng khít với cái chung mà thôi. Doãn vẽ tranh vì “sự cần thiết cho tâm hồn” mình, không cần khen chê bình giá; chính là biểu hiện quan niệm về cái đẹp trong mối quan hệ hẹp cá nhân với cá nhân. Quan niệm nghệ thuật của Doãn nào có khác gì quan niệm về cái đẹp của tình yêu của các nhà văn Tự Lực văn đoàn. Tình yêu chỉ là sự cần thiết cho tâm hồn. Tình yêu mang phẩm chất tinh thần lí tưởng, thanh tân. Tình yêu không phân chia ranh giới với tình bạn. Đó là tình yêu của Loan và Dũng (Đôi bạn, Đoạn tuyệt), của Lan và Ngọc (Hồn bướm mơ tiên ). Trong khi đó, cái đẹp là một giá trị mang tính xã hội rộng lớn, cái đẹp chỉ có thể hằng hữu khi nó được đặt trong mối quan hệ thẩm mĩ giữa chủ thể thẩm mĩ và đối tượng thẩm mĩ tồn tại trong hiện thực khách quan muôn hình muôn vẻ. Hiểu như thế để thấy rằng hiện thực trong tranh của Doãn ngỡ là hữu hình những lại quá vô hình như anh băn khoăn cảm nhận: “Không ngờ đâu hạnh phúc của cả đời mình lại dựa vào một cái vô hình. mỏng manh, không có giá trị gì với mọi người.” Nghệ thuật theo quan niệm của Doãn là vầng sáng bao bọc lấy nghệ sĩ tách chia họ ra khỏi thế giới hiện thực u tối chung quanh. Doãn mê man trong cảm giác: “…nơi chàng ngồi với những trang sách trắng xoá dưới ánh đèn là một cù lao sáng nổi lềnh bềnh ở giữa một khoảng tối tăm vô hạn.” Đúng là Nhất Linh đã lấy cái ánh sáng nghệ thuật và cảm giác rằng chỉ có thứ ánh sáng “nổi lềnh bềnh” ấy mới có thể thăng hoa người nghệ sĩ. Nhà văn cũng như Doãn có biết đâu rằng, nghệ thuật không cần đem trí tượng tượng mà phóng to nó lên; nghệ thuật cần lăn lộn trong cuộc sống, đem ánh sáng của nó mà làm bừng sáng “những khoảng tối tăm vô hạn” của hiện thực cuộc đời.
      3. Thực ra,  văn chương Tự Lực văn đoàn không phải không có “một khoảng tối tăm vô hạn” của hiện thực xã hội đương thời. Đấy là hiện thực tối tăm của “Nhà mẹ Lê” (Thạch Lam), của “Con trâu, Chồng con” (Trần Tiêu). Đấy là hiện thực khắc nghiệt của lễ giáo phong kiến, của đại gia đình  đè nặng lên con người cá nhân trong “Nửa chừng xuân, Gia đình” (Khái Hưng), trong “Đoạn tuyệt, Nắng thu, Đôi bạn” (Nhất Linh). Nhưng hiện thực ấy chưa thực sự là bản chất và có tính quy luật. Hiện thực ấy được cảm nhận có tính trực tiếp - cảm tính hơn là nhận thức sâu sắc, khách quan về bản chất xã hội của các nhà văn Tự Lực văn đoàn. Hiện thực ấy, nếu có là hoàn cảnh điển hình chăng nữa cũng chỉ sản sinh ra những điển hình nghệ thuật chứ không là điển hình nhận thức, điển hình xã hội.
     Chúng ta dễ dàng nhận ra điều đó qua sự hồi hướng cuộc sống và cảm thức phản tỉnh nghệ thuật của nhân vật hoạ sĩ Doãn. Làm sao một hoạ sĩ luôn đắm mình trong vẻ đẹp của hình sắc lại có thể bức phá để trở về cội nguồn của nghệ thuật. Làm sao Doãn thôi không phụng thờ thứ tôn giáo là nghệ thuật duy mĩ  để đến với nội dung hiện thực – nhân dân trong văn chương. Lực đẩy nào đã can thiệp vào diễn trình tư tưởng của Doãn ?
     Lí giải điều này, ngòi bút của Nhất Linh đã phân tích diễn biến tâm lí nhân vật một cách khá sắc sảo. Nhưng tâm lí nhân vật Doãn không phải không có chỗ thiếu nhất quán. Đặc biệt, chi tiết nghệ thuật như là nguyên nhân thức tỉnh của Doãn, đưa anh trở về với hiện thực nhân sinh,  phần nào có tính chất ngẫu nhiên  không có khả năng chuyển hoá thành tất nhiên như chủ nghĩa hiện thực.
    Trước một bức tranh “vẽ một người đàn bà cởi trần, quần lĩnh vén lên gần đầu gối, để hở cả quần trắng trong, ngồi bên cạnh mấy cái cốc sâm banh đầy rượu và ba quả dưa chuột”, Doãn cảm thấy có gì đó vô lí, nhưng không tìm cảnh lí giải. Doãn “… chỉ để ý đến những màu, nhất là màu đen của chiếc quần lĩnh bên cạnh màu trắng và màu da thịt người; những màu đó chàng thấy nó hoà hợp, đăng đối với nhau và mỗi lần nhìn đến, chàng có cái khoan khoái như được nghe một điệu đàn du dương trong hình sắc”. Và nghệ thuật với Doãn là niềm đam mê và khoái cảm thẩm mĩ vô vị lợi sau khi đã vụ lợi. “Trước kia, những tranh của chàng gửi sang Pháp bán rất chạy,.. chàng bán có tới gần vạn bạc tranh, và số tiền đó, chàng đem gửi cả bà mẹ nuôi để tậu ruộng trong làng.”
      Thế mà chỉ trong một buổi sáng tạnh ráo, nhìn một đứa trẻ con trần truồng, bụng to và hai chân lẳng khẳng như con nhái dựng đứng, đi ra cầu ao, Doãn thốt nhiên thức ngộ ? Sự thức tỉnh của Doãn không vượt ra ngoài cấu trúc thức tỉnh mang tính chất lí tưởng hoá, lãng mạn hoá của các nhà văn Tự Lực văn đoàn. Doãn chẳng khác gì Lộc (Nửa chừng xuân - Khái Hưng), An (Gia đình - Khái Hưng), Dũng (Đoạn tuyệt, Đôi bạn - Nhất Linh). Doãn băn khoăn không tin vào nghệ thuật của chính mình nữa. Doãn cảm thấy đời mình trống rỗng, vô vị tưởng chừng như lòng yêu nghệ thuật cũng không thể nào bù đắp được. Doãn nhận thức rõ hai vẻ đẹp đối lập nhau: vẻ đẹp của tranh mình và vẻ đẹp ngoài đời. Hoá ra xưa nay, anh vẽ những cảnh đâu đâu do chính anh tưởng tượng ra, tô tạo nên và cố ghi lên vải. “đó là những cảnh đời sáng sủa mà nội khắp mọi người chung quanh, chỉ có chàng, có mình chàng là trông thấy.” Thế giới nghệ thuật, đời sống trong tranh anh chỉ là một thế giới cảm tính đậm màu sắc chủ quan của tâm hồn anh. Anh “thấy nó cao xa, không bao giờ có thể thành sự thực được, khác nào những đám mây kia đương hờ hững bay trên bầu trời, xán lạn, sạch sẽ quá không liên quan gì đến cảnh nhà tranh tiều tuỵ, ao tù bẩn thỉu ở dưới này”.       
    Từ đấy, Doãn nhận ra thế giới nghệ thuật mà anh đắm chìm lâu nay như một bức tường cao kín che khuất cái nhìn nghệ thuật đậm đà ý nghĩa nhân sinh của anh,  đang lở dần lở dần. Bức tường lở dần rồi sụp đổ làm quang quẻ tầm nhìn của Doãn. Doãn tiếp xúc với hiện thực cuộc sống của người dân quê xung quanh anh. Doãn  thấy rõ cái vô lí trong cái thứ mà anh gọi là nghệ thuật trước đây. Anh bâng khuâng như người tỉnh mộng. Anh lờ mờ thấy có một chút ánh sáng đang chiếu lọt vào trong tư tưởng anh. Hoá ra, người nghệ sĩ trong anh bấy lâu cứ “mê man đi tìm những thứ ánh sáng huyền ảo trên các nóc tranh, không bao giờ tưởng quá tới sự thực thảm đạm: những cuộc đời tối tăm trong các gian nhà tối tăm. Nghệ thuật mục đích để tìm cái đẹp, làm cho người đẹp đẽ hơn lúc đó đối với chàng chỉ  là một sự mỉa mai đau đớn !” Doãn không thể chỉ biết mê đắm, yêu vì  mỗi một cái đẹp của hình sắc. Anh tự dặn lòng thay đổi lối sống và cách vẽ.  Anh phải sống thế nào “để có thể hoà hợp được hai sự trái ngược nhau: lòng yêu nghệ thuật và lòng trắc ẩn trước những cái đau khổ ở bên ngoài.” Thế là Doãn lúi húi vẽ thằng bé õng eo kia. Và anh cảm giác cái màu hung hung của da thịt của thằng bé làm cho các màu khác trong tranh anh hoạt động hẳn lên, sinh sắc hơn. Doãn như sống cảm giác hạnh phúc được hy sinh. Anh không thể đầy đủ, sung sướng trên sự thiếu thốn của người dân quê. Anh tâm nguyện phải sống như lời của nhà văn Andre Gide: “đời có thể đẹp hơn lên được; đời của anh, đời của nhưng người khác”. Hạnh phúc của Doãn từ nay có quan hệ với hạnh phúc của những người chung quanh anh,  “Đời chàng, đời một người dân dã đã nhờ sự may mắn được sáng sủa, cần phải ăn nhập với đời đám dân quê tối tăm, bạn cũ của chàng. Sự nhịp nhàng ấy cần cho hạnh phúc đời chàng cũng như sự hoà hợp của các màu cần cho vẻ đẹp những bức tranh chàng vẽ ”.
     Tưởng cũng cần nói thêm về sự chuyển dịch không gian - không gian gia đình giàu sang và không gian quê hương ngheo khó;  gắn liền với hai hình ảnh biểu tượng, người mẹ nuôi – bà Thượng và người mẹ sinh thành của nhân vật Doãn để thấy rõ hơn tính hiện thực của truyện ngắn Hai vẻ đẹp của Nhất Linh. Không gian gia đình người mẹ nuôi giàu có chỉ có thể hình thành và phát triển ở Doãn ý thức cá nhân cá thể và một phương thức sáng tác nghệ thuật của mình và cho mình. Không gian quê hương, nơi người mẹ nghèo từng sống sẽ cho anh ý thức cộng đồng và phương thức sáng tạo cho người và vì người. Hiểu như thế chúng ta sẽ thấy cái lí bên trong lời độc thoại nội tâm của Doãn: “có thể hoà hợp được hai sự trái ngược nhau: lòng yêu nghệ thuật và  lòng trắc ẩn trước những cái đau khổ ở bên ngoài”. Và chúng ta sẽ hiểu tại sao kết thúc truyện, nhà văn miêu tả Doãn trở về làng quê, ngang qua căn nhà của mẹ ngày xưa, nay tối tăm và tồi tàn hơn. Doãn tưởng như mẹ anh đang tựa cửa, ngóng đợi anh. Và Doãn nghe bên tai văng vẳng tiếng hỏi dịu dàng của mẹ: Con đã về ?
      Như thế, hiện thực trong Hai vẻ đẹp đã có sự biến dịch, từ hiện thực tâm hồn hướng đến hiện thực cuộc đời rộng lớn. Nhưng nếu xét tính hiện thực của tác phẩm thì cái hiện thực đời rộng lớn ấy chưa hẳn là có tính hiện thực. Bởi lẽ, hiện thực ấy được vẽ ra bằng cảm giác chủ quan, bằng tình thương, bằng sự phiến diện và ảo tưởng. Tính hiện thực của nghệ thuật đòi hỏi nó phải phản ánh hiện thực một cách chân thực, nếu thế thì chỉ có hiện thực tâm hồn của Doãn mới có tính hiện thực. Có lẽ không cần bàn luận nhiều, chỉ cần dẫn ra những ý tưởng của Doãn về người dân quê là đã rõ: “Chàng thấy dân quê trong bao lâu cũng hồn nhiên sống như cây cỏ và cái ý tưởng so sánh dân quê với cây cỏ ấy đã khiến an ủi được chàng trong giây lát.” và : “Ta phải hết lòng đi tìm cái đẹp ấy cho người khác cũng như là bấy lâu ta đi tìm cái đẹp về hình sắc để ghi trên vải lụa ...nghĩ ấy làm chàng vui vẻ vì nó thoả được lòng  yêu nghệ thuật cố hữu của chàng... Cảnh đời đẹp đẽ của dân quê đối với ta cũng là một bức tranh đẹp.”
    II. Tính nhân bản:
      1.  V. Hugo từng khái quát: “Chủ nghĩa lãng mạn là chủ nghĩa tự do trong văn học”.      Lời của văn hào nước Pháp không vượt ra ngoài quan điểm triết học và mĩ học duy tâm chủ quan của Kant và duy tâm khách quan của Hégel. Chủ nghĩa tự do trong văn học có nghĩa là: một mặt đề cao sự tôn nghiêm và giá trị của con người cá thể, khẳng định ý thức tự chủ của con người, con người là một cá nhân tự ý thức, khuyến khích con người vượt lên tất cả mọi giới hạn để thể hiện sự phong phú của cá nhân ở các bình diện tâm - tài - trí; nhưng mặt khác chủ nghĩa tự do trong văn học lại tách con người ra khỏi thực tế lịch sử - xã hội, điều đó khiến sáng tạo của chủ nghĩa lãng mạn nhiều khi chưa gắn bó thậm chí xa lạvới những mặt bản chất và quy luật phát triển của xã hội. “Chủ nghĩa lãng mạn là chủ nghĩa tự do trong văn học” như thế là có hai mặt: tích cực và tiêu cực của nó. Đọc Tự Lực văn đoàn chúng ta càng nhận thức sâu sắc ý kiến của nhà văn lãng mạn Pháp.
       2. Tự Lực văn đoàn nói chung và Hai vẻ đẹp nói riêng đã thể hiện cái gọi là chủ nghĩa tự do trong văn học nói trên qua hình tượng nhân vật trung tâm và qua lời trần thuật của nhà văn.
       Ở Hai vẻ đẹp, nhân vật Doãn là hiện thân của một nghệ sĩ và cũng là hiện thân của một con người cá nhân tự ý thức.
       Với tư cách một nghệ sĩ sáng tạo, Doãn là một hoạ  sĩ không phóng túng hình hài mà phóng túng tâm linh. Anh vẽ tranh vì niềm đam mê nghệ thuật. Vẽ với anh là phát huy bản ngã, tự biểu hiện thế giới nội tâm của chính anh. Anh vẽ tranh là vì sự cần thiết cho tâm hồn, chứ không phải vì những  tiếng khen. Ở Doãn có sự đồng quy nhiều thân phận. Anh vừa là chủ thể thẩm mĩ vừa là đối tượng thẩm mĩ, vừa là chủ thể sáng tạo vừa là chủ thể tiếp nhận nghệ thuật. Vẽ chính là khẳng định giá trị của cái tôi nghệ sĩ. Đấy là cái tôi tạo tác, cái tôi cảm xúc, cái tôi tự do phát huy mọi khả năng sáng tạo và năng lực sống của chính mình. Khi ở xưởng vẽ, Doãn cảm giác: “Mỗi lần vào đấy, Doãn thấy người khoan khoái như con cá đương ở trong chậu được thả xuống ao.” Không có vương quốc nào tự do hơn vương quốc nghệ thuật. Chính ở đấy, con người nghệ sĩ mới có thể đêm tâm - tài – trí và cá tính độc đáo của mình mà đề vào tác phẩm. Và cũng chỉ ở đấy nghệ sĩ mới có thể kích mở tâm hồn mình, làm cho nó đa diện đa chiều và phong phú các trạng thái nhân thế.  Con người – nghệ sĩ có khi phấn khích hân hoan trước cái đẹp “Khi ngồi trước giá vẽ, chàng say đắm vẽ màu tươi mát của lá cây, mái nhà, nước ấo, về cái vẻ đẹp của thứ ánh sáng trong mát, một buổi sớm tạnh ráo sau một đêm mưa to”. Cũng có khi con người – nghệ sĩ rơi vào nỗi buồn trong khoảnh khắc bất lực vì không thể biểu hiện trọn vẹn và độc đáo cái đẹp “Chàng hồi hộp vẽ ngấu, vẽ nghiến như người đương đói vớ được bát cơm gạo tám thơm; tuy vẽ hết sức mau mà chàng cũng không kịp ghi lên vải những màu đẹp đẽ và mong manh ấy, đành phải bỏ giở bức tranh.” Và lắm lúc con người – nghệ sĩ lại phải lắng nghe những xung lực nghịch chiều đang diễn ra trong tâm hồn mình và cảm nghe hồn mình trỗng rỗng ghê gớm. Đấy là khi Doãn đến phiên chợ lấy chất liệu thực cho bức tranh   Cảnh chợ nhà quê của anh. Và rồi, dù cho “Doãn vẽ đã mỏi cả tay mà chàng vẫn còn muốn vẽ.(...) Nhưng chàng vẫn nhận thấy nó sai hẳn sự thực; người ở trang giấy đẹp đẽ, sạch sẽ khác xa những người thật xấu xí, bẩn thỉu, tiều tuỵ đi diễu qua trước mắt chàng từ sáng đến giờ.”
     3. Với tư cách một con người Doãn đã khai mở cái tôi tự ý thức từ lâu bị phong bế, Doãn đã làm cho cái tôi nội cảm tinh tế, sắc nhạy của mình hiển hiện lộng lẫy giữa cuộc đời. Và với tư cách một con người, Doãn là một con người tỉnh mộng và là con người của tình thương và chỉ là con người tình thương. Nhưng dẫu thế nào chăng nữa, Doãn vẫn lấp lánh vẻ đẹp nhân văn nhân bản.
     Từ một con người giam mình trong sự sung sướng giàu sang, Doãn đã hồi tâm tìm về quê hương và cảm thức mình cũng là một người con của quê hương nghèo khó. “Doãn táy máy rứt một cây cỏ đưa lên miệng nhai lá. Mùi đất ở rễ cỏ chàng tưởng như một mùi thơm của thời quá vãng còn vương lại, để chàng nghĩ đến cái ý nghĩa của quê hương. Doãn thấy mình đã bao lâu nay sống giữa chốn quê mà đối với quê như một người xa lạ; bây giờ chính những cảnh nhem nhuốc của quê hương đã kích thích chàng, xúi giục chàng quay về với quê hương và mong mỏi cho quê hương trở nên đẹp đẽ.” Có thể đây chỉ là hồi ức dĩ vãng, chỉ là một ý tưởng đang dậy lên len lỏi trong tâm hồn của Doãn; nhưng đấy là tình cảm chân thành, tình yêu quê hương tha thiết vốn là một hằng số văn hoá trong tâm hồn người Việt. Một khi tình quê sống lại trong lòng Doãn cũng đồng thời là lúc tình người, tình cảm cộng đồng lớn lên, mạnh mẽ ra. Cở sở của tình cảm đó là ấn tượng tuổi thơ “cái xã hội nghèo khổ của chàng hồi thủa bé”, “lời than não nùng tự thời ký vãng xa xăm của chàng đưa lại…” và là cái tâm nghệ sĩ, thiện căn của  con người.
     Tình cảm lớn dần và chuyển hoá thành ý thức trong Doãn. Doãn từ ý thức nỗi đau chính mình mà nới rộng ra, nâng dần lên hoà vào nỗi đau của cộng đồng. Anh đã rũ bỏ sự ích kỷ trong cách sống của mình mà hướng một tương lai đầy tính vị tha. Đã hơn hai mươi năm, Doãn ăn học thành tài, miệt mài với hội hoạ và sống sung sướng; nhưng nào anh có biết: “tiền ăn học của chàng trong bao năm là tiền của những người nhà quê đói khổ ngồi kia” như bác Trạch, người đàn bà nghèo láng giềng của anh ngày trước. Bây giờ thì anh như được “mở mắt”. Anh đồng cảm với thân phận người dân quê. Họ khó nghèo nhưng không ý thức được nguyên nhân sự nghèo khó của họ. Thậm chí họ“đã van lạy xin vào để bị bóc lột mà vẫn thản nhiên không biết.” Doãn  phải sống ở đây,  phải sống cùng với những người dân quê lam lũ, khổ nghèo. Doãn ý thức rằng, chính những nỗi khổ của người chung quanh sẽ đem lại cho anh cái lẽ để mà sống. Và anh sẽ “soi sáng cho họ, dạy họ biết một cách sống khác, gợi họ mơ ước một cảnh đời đẹp đẽ hơn.” Anh sẽ hướng họ về phía tương lai, một tương lai không bao giờ tăm tối nữa.
     4. Chúng ta không rõ mơ ước của Doãn có trở thành hiện thực không, có là nguyên tắc cho hoạt động tình thương của anh hay không ? Nhưng điều chúng ta thấy rõ ràng nhất, anh là tiền thân của Bảo - Hạc trong tiểu thuyết “Gia đình” của Khái Hưng, của Duy - Thơ trong tiểu thuyết “Con đường sáng” của Hoàng Đạo. Có lẽ, cũng không cần phải bàn về chủ nghĩa cải lương trong tư tưởng của các nhân vật ấy và cũng của các nhà văn Tự Lực văn đoàn mà chỉ bàn đến đâu là cái khả thủ trong quan niệm của họ. Trong cuộc sống của chúng ta, một giọt nước mắt rỏ xuống vì nỗi đau con người là một giọt nước mắt đẹp. Bởi nó không còn là giọt nước mắt nữa mà là tính người, tình người. Vậy thì tại sao chúng ta lại không đồng cảm với Doãn khi anh cho người ăn mày một xu, xin mẹ nuôi không thu tiền lãi vay nợ cho bác Trạch. Vậy thì tại sao chúng ta không cùng Doãn ước mơ về một cảnh đời đẹp đẽ của dân quê trong tương lai.  Hiểu như thế mới thấy, văn chương Tự Lực văn đoàn nói chung và truyện ngắn Hai vẻ đẹp của Nhất Linh nói riêng cũng tha thiết một nỗi niềm nhân bản rất đáng trân trọng.
C. KẾT LUẬN:
    1. Truyện ngắn Hai vẻ đẹp của nhà văn Nhất Linh có thể chưa thật tiêu biểu và khái quát hết được đặc trưng văn chương của Tự Lực văn đoàn, Nhưng tác phẩm cũng cho ta một hướng tiếp cận để khám phá những đặc trưng cơ bản của văn phái này. Đặc trưng văn chương Tự Lực văn đoàn đó là tính hiện thực và tính nhân bản. Truyện ngắn đã cho thấy tính chân thực của các nhà văn lãng mạn khi họ đi sâu khám phá và miêu tả thế giới nội tâm con người. Con người là một sinh thể xúc cảm trước cái đẹp con người và trời đất. Chính nhờ lấy nội tâm con người làm đối tượng thẩm mĩ mà văn chương Tự Lực văn đoàn giàu tính biểu cảm; ngòi bút của họ phân tích tâm lí nhân vật một cách sâu sắc. Văn chương Tự lực văn đoàn cũng có tính nhân bản khi họ sáng tác vì con người, con người là một giá trị, con người là một thực thể tự nhiên và xã hội sinh động.
    2. Bàn về đặc trưng văn học nói chung và văn chương Tự Lực văn đoàn nói riêng không chỉ dừng lại ở tính nhân bản và tính hiện thực mà còn nhiều tính chất khác nữa. Thế những do dung lượng của một tiểu luận, chúng tôi chỉ xin được trình bày hai nét đặc trưng trên mà thôi. Hy vọng rằng, ở một bài viết khác, chúng tôi sẽ nghiên cứu đầy đủ hơn những đặc trưng của Tự Lực văn đoàn.
                                                       Hoàng Dục
                                                          11-2002

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét