Chí Phèo tự sát. Người cố nông Việt Nam chết trong cơn tuyệt vọng. Và trang văn của Nam Cao thấm máu nhân quyền. Phải chăng đây là một hiện tượng văn học mới ? Phải chăng đây là một sự kiện xã hội mới như nhà xã hội học người Pháp Durkheim từng nói, khi con người ta tư tử chính là lúc xã hội rơi vào sự khủng hoảng ? Hay đây là một hiện tượng của văn hoá học và tâm lí học ?
Đúng là cái chết của Chí không chỉ là vấn đề xã hội mà còn là vấn đề văn hoá mà nhà văn đã thể hiện trong tác phẩm của mình. Vì vậy, để có thể lí giải thêm nguyên nhân Chí tìm đến với cái chết, tại sao ta không cùng Chí lang thang trong không gian văn hoá của hắn.
Theo chân Chí, ta dừng lại ngắm nhìn bao quát cái môi trường văn hoá mà hắn đã sinh ra lớn lên và trú ngụ ở đấy. Ta nhìn tổng thể và chợt nhận ra rằng, cái không gian văn hoá ấy không còn nhất thể nữa mà có sự lưỡng phân, lưỡng cực. Đấy là hai không gian trong một không gian. Không gian nhà tù và không gian làng Vũ Đại. Ở bình diện văn học, nhà tù thực dân và làng Vũ Đại là hai không gian nghệ thuật, hai hình ảnh không gian. Nhưng xét về phương diện văn hoá, đấy là hai biểu tượng. Nhà tù đã giam nhốt Chí bảy, tám năm ấy là một không gian văn hoá ngoại nhập. Không gian văn hoá không truyền thống này đã biến đổi một anh Chí thành một thằng Chí Phèo. Từ nơi ấy đi ra, Chí đã có một nhân cách khác, một lối ứng xử khác. Chí trở thành một con người cá nhân luận. Chí trông đặc như một thằng săng đá khác hẳn với Chí khi còn ở làng Vũ Đại. Ngày chưa vào vòng lao lí, cái không gian văn hoá nông nghiệp, nền văn minh thảo mộc có tính chất bản địa sông Hồng - làng Vũ Đại - đã “di truyền” cho Chí một nhân cách truyền thống, một lối ứng xử truyền thống Việt Nam. Làng Vũ Đại, nơi cư dân lúa nước, xa rừng nhạt biển, sinh tồn đã hình thành từ tầng sâu tâm thức Chí một con người nhân cách luận. Và trong không gian văn hoá làng ấy, Chí ôm ấp giấc mộng đẹp của anh tiểu nông và Chí là một cá thể trong một cộng đồng tình nghĩa Việt Nam.
Hai không gian trong một không gian đã cung cấp và tạo sinh cho Chí hai diện mạo hai thân phận nghịch chiều. Nhà tù thực dân đã đeo mặt nạ tha hoá quỹ dữ, phá phách lên người Chí bắt chí sống trong thân phận kẻ tay sai nô lệ tinh thần và cuối cùng là một con vật lạ giữa cuộc đời. Cái làng Vũ Đại nguyên thuỷ nông nghiệp cho anh Chí bước vào cuộc đời với diện mạo hiền như đất và sống với thân phận anh canh điền cho Bá Kiến. Chính hai không gian không hoà hợp ấy đã xô đẩy nhau, chèn ép nhau lúc nổi lúc chìm trong cuộc đời của Chí và luôn bức bách Chí sống phải sống với tình thế bất an, bị chấn thương tâm lí; để rồi dẫn Chí đến trước giới hạn cuối cùng của sự sống sau này.
Đâu chỉ có không gian văn hoá tổng thể lưỡng phân. Dừng lại ở cái làng Vũ Đại có cái thế đất “quần ngư tranh thực”, ta lại nhận ra rằng không gian làng xã ngày xưa ấy cũng đang có sự phân cực. Làng nông nghiệp tự trị cộng cư, một nét đẹp truyền thống văn hoá Việt Nam đang rơi vào tình trạng “cùng cội nguồn mà không cùng chô” của những cư dân đang sinh tụ ở đấy. Nơi đây đang hiện diện những ông Bá, ông Lí, bên cạnh những ông Đội, anh Binh...Không gian văn hoá xã hội Vũ Đại đang ngự trị hai thế lực biểu trưng cho cái ác, phong kiến và thực dân. Hai thế lực này vừa đối lập vừa thống nhất. Chúng vừa bu lại với nhau để bóc lột dân lành và vừa ngấm ngầm chờ dịp cho nhau ăn bùn, nhằm độc chiếm lợi quyền từ mồ hôi, nước mắt, thậm chí xương máu của nhân dân. Sống trong không gian ấy, Chí phải đi tù, phải lưu manh hoá, phải làm thân trâu ngựa và là một con người bi kịch là tất yếu. Cái nhìn hiện thực nhân đạo của Nam Cao đã trưng ra trang viết của ông tác động một chiều của hoàn cảnh xã hội đối với con người. Con người trước xung lực hoàn cảnh chỉ là một nạn nhân, một cây sậy - người yếu ớt và bất lực nên nhanh chóng trở thành con rối của xã hội. Nhà văn đã từ một hoàn cảnh văn hoá - xã hội điển hình để xây dựng một tính cách văn hoá điển hình độc đáo: Chí Phèo.
Như vậy là ta đã đồng tình đồng cảm với Nam Cao, khi nhìn nhận và ngẫm nghĩ về không gian làng văn hoá xã hội 30-45 đã gây hại cho anh canh điền. Nhưng ta lại có chút hồ nghi. Con người Việt Nam xưa nay, dù hoàn cảnh nào vẫn không đánh mất bản sắc văn hoá dân tộc kia mà. Bởi họ đã được “thai giáo”, rồi thừa hưởng sự di truyền văn hoá truyền thống tốt đẹp từ thuở ấu thơ trong không gian văn hoá gia đình. Ngẫm nghĩ để rồi ta vỡ lẽ ra, Chí làm gì có một mái ấm gia đình. Từ khi sinh ra, “gia đình” Chí đã phủ nhận Chí. Chí “chào đời” trong chiếc váy đụp ở cái lò gạch cũ, không người lại qua. Một anh thả ống lươn nhặt được, hắn lại qua tay bác phó cối, bà goá mù không con. Hắn đi qua những gia đình không toàn vẹn, những “mảnh vơ” của gia đình hạt nhân trong đời sống văn hoá Việt Nam. Gia đình hạt nhân là môi trường văn hoá đầu tiên và cơ bản giáo dục cá thể người, giứp họ thừa hưởng và tiếp nhận văn hoá cộng đồng. Vậy mà, Chí “vô gia đình” và không được tiếp thu sự di truyền văn hoá cộng đồng. Chí sống với một tính cách văn hoá bậc thấp, chả trách chỉ sau bảy tám năm ở tù về, Chí đã thay đổi nhân cách văn hoá, trở nên méo mó dị dạng về thể xác lẫn tinh thần. Từ một con người đáng ra phải sống với nền văn hoá nhân cách luận, hắn dễ dàng tiêm nhiễm nền văn hoá cá nhân luận phương Tây một cách vô thức. Cá nhân luận đã hình thành một Chí Phèo nổi loạn, tha hoá. Viết ra điều này không phải để trách cứ Chí Phèo mà để thấy chiều sâu trong “tiền phát sinh” sáng tạo tác phẩm văn chương của Nam Cao và cũng là để minh oan cho Chí.
Đúng là “vô gia đình”, nên Chí đã chao đảo, lung lay trước những biến động xã hội - văn hoá. Và Chí đã phải gánh chịu cơn chấn động tâm lí dẫn đến những cách ứng xử văn hoá khác nhau của hắn mà nhà văn thể hiện xuyên suốt tác phẩm. Ở đây, ta chỉ bàn về hai cách ứng xử văn hoá cơ bản của Chí, trước và sau khi gặp Thị Nở.
Trước khi gặp Thị Nở, nhất là sau khi ở tù trở về làng Vũ Đại, con người cá nhân luận trong Chí mạnh lên, lấn át con người nhân cách luận. Chính con người cá nhân luận đã bức bách Chí, tính cách văn hoá kiểu duy lí bắt hắn phải tách rời cộng đồng. Thái độ đối nghịch với cộng đồng có thể rất nhiều; nhưng biểu hiện tập trung nhất, nổi bật nhất vẫn là qua hành động chửi, giọng điệu chửi của Chí. Bắt đầu hắn chửi trời, rồi chửi đời, chửi cả làng Vũ Đại và cuối cùng chửi đứa chết cha chết mẹ nào đẻ ra cái thân hắn cho hắn khổ. Tiếng chửi của Chí có thể lí giải bằng nhiều cung bậc ý nghĩa khác nhau, nào là vừa thể hiện mặc cảm tự tôn vừa là mặc cảm tự ti, nào là tiếng chửi như là một hình thức mong cầu khẳng định sự hiện hữu của mình trước cuộc đời, nào là bộc lộ sự biến thái nhân cách,... Dẫu hiểu thế nào thì ở bình diện văn hoá, đây là cách ứng xử của cái tôi t biện, duy lí của Chí đối với cộng đồng tình nghĩa, bà con xa xóm giềng gần của Chí. Tiếng chửi to tát đã đẩy Chí ra khỏi môi trường văn hoá của mình và đối lập với cư dân lúa nước duy tình, duy cảm của hắn. Chí chửi và cả làng Vũ Đại không ai lên tiếng cả. Người ta mặc cho hắn chửi, họ im lặng tước đi cái văn vẻ của tiếng chửi để cho con người cá nhân trong Chí tiu nghỉu mà tắt tiếng. Cả làng Vũ Đại sợ chăng ? Ai lại không sợ trước một thằng cùng liều thân ! Ai lại không tránh mặt trước một con quỹ dữ chuyên phá phách nhũng nhiễu dân làng mỗi lần hắn qua. Nhưng có lẽ cơ bản nhất vẫn là để cho Chí nhận thức chửi mà không ai lên tiếng thì còn văn vẻ gì để Chí không chửi nữa, có nghĩa là thôi không đối lập với cộng đồng.Và thái độ im lặng của họ cũng bởi tâm thức văn hoá người Việt vốn bao dung và khoan hoà. Người ta xem Chí như một kẻ đang tạm thời rừng đời lạc lối. Dân làng Vũ Đại vẫn khoan thứ cho Chí, chỉ có một người không thể tha thứ, đó là bà cô Thị Nở. Nhưng xét cho cùng, bà cô Thị Nở biểu trưng cho một trạng thái tâm lí khác, một kiểu tư duy khác, đồng dạng với cái ác, chỉ chiếm số ít trong cộng đồng dân cư làng Vũ Đại. Cho nên Chí vẫn tồn tại, bặm trợn, tự tung tự tác mà có biết đâu cả cộng đồng đang mong mỏi Chí trở về với họ.
Và thế là Chí gặp Thị Nở ở bến sông hoang vắng, cái môi trường văn hoá tự nhiên với người con gái mang trong mình cái nguyên khối tự nhiên. Thị Nở đã khải thị cho Chí, dẫn dắt hắn trở về với cộng đồng, với bản sắc văn hoá Việt. Ngày trước, Chí là con người cá nhân xã hội hướng ngoại, bây giờ chí là con người tự nhiên hướng nội của phương Đông. Chí âu sầu suy tư cho thân phận của mình già mà cô độc và hồi hướng thiện tâm. Chí rưng rưng. Những giọt nước mắt kia là giọt lành nhân tính, giọt tình ăn năn và cũng là giọt hoài niệm cộng đồng. Chí khát khao cháy bỏng lương thiện và được cộng đồng cư dân lúa nước nhận vào trong xã hội bằng phẳng của họ (Khao khát của Chí là chính đáng nhưng vẫn ảo tưởng, bởi làm gì có một xã hội bằng phẳng, một khi vẫn còn đó nhà tù thực dân vẫn còn đó bá Kiến). Điều ta trân trọng ở Chí là niềm tin vào sự bằng phẳng của cộng đồng, vào không gian văn hoá làng tốt đẹp của hắn và nhận ra kẻ không cho hắn trở lại làm người lương thiện, trở về với môi trường văn hoá Việt trong lành, tình nghĩa.
Không những thế, ta còn cảm thức nỗi hồi ức gia đình hạt nhân đang lớn lên trong tâm thức của hắn. Hắn nhớ ngày xưa đã từng mơ ước có một mái gia đình, chồng cày thuê cuốc mướn, vợ dệt vải, nếu có vốn tậu con lợn về nuôi. Ước mơ giản dị nhưng chưa bao giờ Chí thực hiện được. Bây giờ bên thị Nở giấc mơ ấy trở nên mãnh liệt, tha thiết hơn bao giờ hết. Hãy nghe Chí tỏ bày với người đàn bà đã thăng hoa giấc mơ của Hắn. “Giá cứ thế này mãi thì thích nhỉ” và “Hay mình sang đây ở một nhà với tớ cho vui”. Tuyệt nhiên, ở đây không có cái lối tỏ tình bình dân. Đây là một ứng xử văn hoá, một niềm vui hoài niệm gia đình hạt nhân, một khát vọng được sống êm ấm, bình an giữa không gian văn hoá truyền thống của Chí. Nhưng quái ác thay, thị Nở lại “dừng yêu”. Chí hẫng hụt, đối diện với sự trống rỗng. Chí hiểu ra vấn đề. Muốn có được một gia đình hạt nhân giữa không gian văn hoá làng, muốn trở lại lối ứng xử văn hoá truyền thống, tính cách văn hoá của con người Việt khoan hoà, trọng tình; chỉ còn một cách là Chí phải loại bỏ thế lực ngáng đường về của Chí. Chí đã vung dao lên giết Bá Kiến. Và Chí tự kết liễu đời mình.
Tại sao Chí tự hoại đời mình ? Đến đây, ta có thể tạm dừng ch©n trong môi trường văn hoá của Chí. Ta tự vấn chính mình. Phải chăng Chí chết vì xã hội bít lối về làm người lương thiện của hắn hay cái xung lực văn hoá cá nhân luận và nhân cách luận đã chọn một lối thoát bế tắt tiêu cực cho chính h¾n ?
Chí Phèo đã chết, nhưng chẳng chịu đi vào cõi hư vô. Chí hình như vẫn sống giữa đời bằng một lời cảnh báo trầm thống: hãy giữ lấy bản sắc văn hoḠViệt trước viễn cảnh giao lưu, hội nhập hiện nay.
Hoàng Dục
Huế, 4 - 2002
Theo chân Chí, ta dừng lại ngắm nhìn bao quát cái môi trường văn hoá mà hắn đã sinh ra lớn lên và trú ngụ ở đấy. Ta nhìn tổng thể và chợt nhận ra rằng, cái không gian văn hoá ấy không còn nhất thể nữa mà có sự lưỡng phân, lưỡng cực. Đấy là hai không gian trong một không gian. Không gian nhà tù và không gian làng Vũ Đại. Ở bình diện văn học, nhà tù thực dân và làng Vũ Đại là hai không gian nghệ thuật, hai hình ảnh không gian. Nhưng xét về phương diện văn hoá, đấy là hai biểu tượng. Nhà tù đã giam nhốt Chí bảy, tám năm ấy là một không gian văn hoá ngoại nhập. Không gian văn hoá không truyền thống này đã biến đổi một anh Chí thành một thằng Chí Phèo. Từ nơi ấy đi ra, Chí đã có một nhân cách khác, một lối ứng xử khác. Chí trở thành một con người cá nhân luận. Chí trông đặc như một thằng săng đá khác hẳn với Chí khi còn ở làng Vũ Đại. Ngày chưa vào vòng lao lí, cái không gian văn hoá nông nghiệp, nền văn minh thảo mộc có tính chất bản địa sông Hồng - làng Vũ Đại - đã “di truyền” cho Chí một nhân cách truyền thống, một lối ứng xử truyền thống Việt Nam. Làng Vũ Đại, nơi cư dân lúa nước, xa rừng nhạt biển, sinh tồn đã hình thành từ tầng sâu tâm thức Chí một con người nhân cách luận. Và trong không gian văn hoá làng ấy, Chí ôm ấp giấc mộng đẹp của anh tiểu nông và Chí là một cá thể trong một cộng đồng tình nghĩa Việt Nam.
Hai không gian trong một không gian đã cung cấp và tạo sinh cho Chí hai diện mạo hai thân phận nghịch chiều. Nhà tù thực dân đã đeo mặt nạ tha hoá quỹ dữ, phá phách lên người Chí bắt chí sống trong thân phận kẻ tay sai nô lệ tinh thần và cuối cùng là một con vật lạ giữa cuộc đời. Cái làng Vũ Đại nguyên thuỷ nông nghiệp cho anh Chí bước vào cuộc đời với diện mạo hiền như đất và sống với thân phận anh canh điền cho Bá Kiến. Chính hai không gian không hoà hợp ấy đã xô đẩy nhau, chèn ép nhau lúc nổi lúc chìm trong cuộc đời của Chí và luôn bức bách Chí sống phải sống với tình thế bất an, bị chấn thương tâm lí; để rồi dẫn Chí đến trước giới hạn cuối cùng của sự sống sau này.
Đâu chỉ có không gian văn hoá tổng thể lưỡng phân. Dừng lại ở cái làng Vũ Đại có cái thế đất “quần ngư tranh thực”, ta lại nhận ra rằng không gian làng xã ngày xưa ấy cũng đang có sự phân cực. Làng nông nghiệp tự trị cộng cư, một nét đẹp truyền thống văn hoá Việt Nam đang rơi vào tình trạng “cùng cội nguồn mà không cùng chô” của những cư dân đang sinh tụ ở đấy. Nơi đây đang hiện diện những ông Bá, ông Lí, bên cạnh những ông Đội, anh Binh...Không gian văn hoá xã hội Vũ Đại đang ngự trị hai thế lực biểu trưng cho cái ác, phong kiến và thực dân. Hai thế lực này vừa đối lập vừa thống nhất. Chúng vừa bu lại với nhau để bóc lột dân lành và vừa ngấm ngầm chờ dịp cho nhau ăn bùn, nhằm độc chiếm lợi quyền từ mồ hôi, nước mắt, thậm chí xương máu của nhân dân. Sống trong không gian ấy, Chí phải đi tù, phải lưu manh hoá, phải làm thân trâu ngựa và là một con người bi kịch là tất yếu. Cái nhìn hiện thực nhân đạo của Nam Cao đã trưng ra trang viết của ông tác động một chiều của hoàn cảnh xã hội đối với con người. Con người trước xung lực hoàn cảnh chỉ là một nạn nhân, một cây sậy - người yếu ớt và bất lực nên nhanh chóng trở thành con rối của xã hội. Nhà văn đã từ một hoàn cảnh văn hoá - xã hội điển hình để xây dựng một tính cách văn hoá điển hình độc đáo: Chí Phèo.
Như vậy là ta đã đồng tình đồng cảm với Nam Cao, khi nhìn nhận và ngẫm nghĩ về không gian làng văn hoá xã hội 30-45 đã gây hại cho anh canh điền. Nhưng ta lại có chút hồ nghi. Con người Việt Nam xưa nay, dù hoàn cảnh nào vẫn không đánh mất bản sắc văn hoá dân tộc kia mà. Bởi họ đã được “thai giáo”, rồi thừa hưởng sự di truyền văn hoá truyền thống tốt đẹp từ thuở ấu thơ trong không gian văn hoá gia đình. Ngẫm nghĩ để rồi ta vỡ lẽ ra, Chí làm gì có một mái ấm gia đình. Từ khi sinh ra, “gia đình” Chí đã phủ nhận Chí. Chí “chào đời” trong chiếc váy đụp ở cái lò gạch cũ, không người lại qua. Một anh thả ống lươn nhặt được, hắn lại qua tay bác phó cối, bà goá mù không con. Hắn đi qua những gia đình không toàn vẹn, những “mảnh vơ” của gia đình hạt nhân trong đời sống văn hoá Việt Nam. Gia đình hạt nhân là môi trường văn hoá đầu tiên và cơ bản giáo dục cá thể người, giứp họ thừa hưởng và tiếp nhận văn hoá cộng đồng. Vậy mà, Chí “vô gia đình” và không được tiếp thu sự di truyền văn hoá cộng đồng. Chí sống với một tính cách văn hoá bậc thấp, chả trách chỉ sau bảy tám năm ở tù về, Chí đã thay đổi nhân cách văn hoá, trở nên méo mó dị dạng về thể xác lẫn tinh thần. Từ một con người đáng ra phải sống với nền văn hoá nhân cách luận, hắn dễ dàng tiêm nhiễm nền văn hoá cá nhân luận phương Tây một cách vô thức. Cá nhân luận đã hình thành một Chí Phèo nổi loạn, tha hoá. Viết ra điều này không phải để trách cứ Chí Phèo mà để thấy chiều sâu trong “tiền phát sinh” sáng tạo tác phẩm văn chương của Nam Cao và cũng là để minh oan cho Chí.
Đúng là “vô gia đình”, nên Chí đã chao đảo, lung lay trước những biến động xã hội - văn hoá. Và Chí đã phải gánh chịu cơn chấn động tâm lí dẫn đến những cách ứng xử văn hoá khác nhau của hắn mà nhà văn thể hiện xuyên suốt tác phẩm. Ở đây, ta chỉ bàn về hai cách ứng xử văn hoá cơ bản của Chí, trước và sau khi gặp Thị Nở.
Trước khi gặp Thị Nở, nhất là sau khi ở tù trở về làng Vũ Đại, con người cá nhân luận trong Chí mạnh lên, lấn át con người nhân cách luận. Chính con người cá nhân luận đã bức bách Chí, tính cách văn hoá kiểu duy lí bắt hắn phải tách rời cộng đồng. Thái độ đối nghịch với cộng đồng có thể rất nhiều; nhưng biểu hiện tập trung nhất, nổi bật nhất vẫn là qua hành động chửi, giọng điệu chửi của Chí. Bắt đầu hắn chửi trời, rồi chửi đời, chửi cả làng Vũ Đại và cuối cùng chửi đứa chết cha chết mẹ nào đẻ ra cái thân hắn cho hắn khổ. Tiếng chửi của Chí có thể lí giải bằng nhiều cung bậc ý nghĩa khác nhau, nào là vừa thể hiện mặc cảm tự tôn vừa là mặc cảm tự ti, nào là tiếng chửi như là một hình thức mong cầu khẳng định sự hiện hữu của mình trước cuộc đời, nào là bộc lộ sự biến thái nhân cách,... Dẫu hiểu thế nào thì ở bình diện văn hoá, đây là cách ứng xử của cái tôi t biện, duy lí của Chí đối với cộng đồng tình nghĩa, bà con xa xóm giềng gần của Chí. Tiếng chửi to tát đã đẩy Chí ra khỏi môi trường văn hoá của mình và đối lập với cư dân lúa nước duy tình, duy cảm của hắn. Chí chửi và cả làng Vũ Đại không ai lên tiếng cả. Người ta mặc cho hắn chửi, họ im lặng tước đi cái văn vẻ của tiếng chửi để cho con người cá nhân trong Chí tiu nghỉu mà tắt tiếng. Cả làng Vũ Đại sợ chăng ? Ai lại không sợ trước một thằng cùng liều thân ! Ai lại không tránh mặt trước một con quỹ dữ chuyên phá phách nhũng nhiễu dân làng mỗi lần hắn qua. Nhưng có lẽ cơ bản nhất vẫn là để cho Chí nhận thức chửi mà không ai lên tiếng thì còn văn vẻ gì để Chí không chửi nữa, có nghĩa là thôi không đối lập với cộng đồng.Và thái độ im lặng của họ cũng bởi tâm thức văn hoá người Việt vốn bao dung và khoan hoà. Người ta xem Chí như một kẻ đang tạm thời rừng đời lạc lối. Dân làng Vũ Đại vẫn khoan thứ cho Chí, chỉ có một người không thể tha thứ, đó là bà cô Thị Nở. Nhưng xét cho cùng, bà cô Thị Nở biểu trưng cho một trạng thái tâm lí khác, một kiểu tư duy khác, đồng dạng với cái ác, chỉ chiếm số ít trong cộng đồng dân cư làng Vũ Đại. Cho nên Chí vẫn tồn tại, bặm trợn, tự tung tự tác mà có biết đâu cả cộng đồng đang mong mỏi Chí trở về với họ.
Và thế là Chí gặp Thị Nở ở bến sông hoang vắng, cái môi trường văn hoá tự nhiên với người con gái mang trong mình cái nguyên khối tự nhiên. Thị Nở đã khải thị cho Chí, dẫn dắt hắn trở về với cộng đồng, với bản sắc văn hoá Việt. Ngày trước, Chí là con người cá nhân xã hội hướng ngoại, bây giờ chí là con người tự nhiên hướng nội của phương Đông. Chí âu sầu suy tư cho thân phận của mình già mà cô độc và hồi hướng thiện tâm. Chí rưng rưng. Những giọt nước mắt kia là giọt lành nhân tính, giọt tình ăn năn và cũng là giọt hoài niệm cộng đồng. Chí khát khao cháy bỏng lương thiện và được cộng đồng cư dân lúa nước nhận vào trong xã hội bằng phẳng của họ (Khao khát của Chí là chính đáng nhưng vẫn ảo tưởng, bởi làm gì có một xã hội bằng phẳng, một khi vẫn còn đó nhà tù thực dân vẫn còn đó bá Kiến). Điều ta trân trọng ở Chí là niềm tin vào sự bằng phẳng của cộng đồng, vào không gian văn hoá làng tốt đẹp của hắn và nhận ra kẻ không cho hắn trở lại làm người lương thiện, trở về với môi trường văn hoá Việt trong lành, tình nghĩa.
Không những thế, ta còn cảm thức nỗi hồi ức gia đình hạt nhân đang lớn lên trong tâm thức của hắn. Hắn nhớ ngày xưa đã từng mơ ước có một mái gia đình, chồng cày thuê cuốc mướn, vợ dệt vải, nếu có vốn tậu con lợn về nuôi. Ước mơ giản dị nhưng chưa bao giờ Chí thực hiện được. Bây giờ bên thị Nở giấc mơ ấy trở nên mãnh liệt, tha thiết hơn bao giờ hết. Hãy nghe Chí tỏ bày với người đàn bà đã thăng hoa giấc mơ của Hắn. “Giá cứ thế này mãi thì thích nhỉ” và “Hay mình sang đây ở một nhà với tớ cho vui”. Tuyệt nhiên, ở đây không có cái lối tỏ tình bình dân. Đây là một ứng xử văn hoá, một niềm vui hoài niệm gia đình hạt nhân, một khát vọng được sống êm ấm, bình an giữa không gian văn hoá truyền thống của Chí. Nhưng quái ác thay, thị Nở lại “dừng yêu”. Chí hẫng hụt, đối diện với sự trống rỗng. Chí hiểu ra vấn đề. Muốn có được một gia đình hạt nhân giữa không gian văn hoá làng, muốn trở lại lối ứng xử văn hoá truyền thống, tính cách văn hoá của con người Việt khoan hoà, trọng tình; chỉ còn một cách là Chí phải loại bỏ thế lực ngáng đường về của Chí. Chí đã vung dao lên giết Bá Kiến. Và Chí tự kết liễu đời mình.
Tại sao Chí tự hoại đời mình ? Đến đây, ta có thể tạm dừng ch©n trong môi trường văn hoá của Chí. Ta tự vấn chính mình. Phải chăng Chí chết vì xã hội bít lối về làm người lương thiện của hắn hay cái xung lực văn hoá cá nhân luận và nhân cách luận đã chọn một lối thoát bế tắt tiêu cực cho chính h¾n ?
Chí Phèo đã chết, nhưng chẳng chịu đi vào cõi hư vô. Chí hình như vẫn sống giữa đời bằng một lời cảnh báo trầm thống: hãy giữ lấy bản sắc văn hoḠViệt trước viễn cảnh giao lưu, hội nhập hiện nay.
Hoàng Dục
Huế, 4 - 2002
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét