
Kể từ khi vào trường năm 1964, đâu phải ai trong chúng ta cũng có may mắn học lên, học tiếp dưới mái trường Trung học Phan Châu Trinh, Đà Nẵng thân yêu. Có bạn học hết lớp đệ thất rồi rẽ lối chuyển sang một ngôi trường mới, ở một vùng đất mới nào đó. Có bạn học hết đệ tứ đã vội xếp chữ "thư" mà theo chữ "kiếm", dấn thân vào cõi gió bụi. Có bạn hết đệ tam, hoặc xong tú tài bán, hay học năm nhất đại học 1972, lại phải vẫy tay: "Môi cười ở cuối sân ga - Xưa là cố quận nay là tiễn nhau" (Bùi Giáng) để "Túy ngọa sa trường quân mạc tiếu - Cổ lai chính chiến kỉ nhân hồi" (Sầm Tham). Trong những bạn sớm rời mái trường trung học, bỏ lại sau lứng giảng đường đại học ấy, có nhiều bạn đã vĩnh viễn không trở lại cuộc chơi. Riêng lớp mình cũng đã có một Huỳnh Sinh (tứ 3) sớm trở về với cát bụi, có Phan Khắc Hòe, Nguyễn Văn Thành, Nguyễn Văn Hùng (B2) đặt chân lên "đường xa vạn dặm",... Còn bạn nào nữa, mình không có thông tin gì giữa cuộc biến thường nhân gian này!
Kể từ năm 1964, phần lớn các bạn đều ra trường vào năm 1971 sau khi đỗ tú tài toàn phần, còn không ít các bạn phải sớm từ gã mái trường theo cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. Như thế, chúng ta rời trường, thời gian không giống nhau, nhưng trong thẳm sâu tâm khảm ngôi trường Phan Châu Trinh Đà Nẵng mãi là: "Ngôi trường đó là trong anh nỗi nhớ - Là trong em cả tuổi trẻ thiên thần" (Trần Hoan Trinh) . Và dẫu thời gian có là thoi dệt, hay bóng câu qua cửa thì tình bạn vẫn sáng láng, vẫn bền vững như tự thuở nào cùng hát "Phan Châu Trinh người chiến sĩ quốc gia bất diệt...", cùng đánh nhịp theo sự yêu cầu của thầy Hoàng Bích Sơn vào giờ nhạc đồng thanh ca: "Nào anh em ta cùng nhau xông pha lên đàng...", và cùng... Chính thời gian chứ không là gì khác giúp mình khẳng định một cách chắc nịch hơn tấm lòng bè bạn, nỗi nhớ về một ngôi trường của tất cả chúng ta. Cho nên, mình càng nôn nao hơn khi ngày gặp lại tất cả các bạn cùng khóa gần kề.
Từ tâm trạng này bỗng nhớ đến Nguyễn Hùng Kiện. Chiều thứ 5, mình đang soạn bài, bỗng điện thoại reo. Nhấc máy, nghe tiếng Kiện hớn hở báo tin và thúc hối: "Kỉ yếu in xong rồi, lên chỗ Trương Văn Thông, mình đem xuống cho xem". Vội vàng thu xếp bài vở, tắt máy, mình chạy lên "nhà sách" của Thông. Quái, hối thúc mà sao lâu đến vậy, mình trách Kiện. Gọi Thông vậy. Thông bảo đang ở nhà đợi Kiện. Gọi Kiện, Kiện bảo đến nhà Thông đón Thông lên luôn. Mình lầm bầm: Lại bắt người ta chờ, nôn nao quá! Nhưng rồi Thông đến, và Kiện đến. Mặt anh nào cũng tươi rói. Cái đầu bạc bỗng trở nên lạc lõng với nụ cười rất "trẻ thơ". Kiện mời đi làm li bia, gọi là khao anh em, mừng Kỉ yếu đã ra lò còn nóng hôi hổi. Ừ thì đi,... Thế là trừ cú nâng li "zô!" đầu tiên mừng "thắng lợi", còn thì kẻ chúi mũi dán mắt vào kỉ yếu, kẻ tâm sự về quá trình làm sách,... Ôi chao, sao mà thương thế. Sáu mươi rồi mà làm được một chút gì cho bằng hữu vui cũng mừng như bắt được vàng vậy.
Đọc Nguyễn Ngọc Ân, nhìn Nguyễn Hùng Kiện, Trương Văn Thông nôn nao, tôi thấy mình qua gương mặt bạn. VUI!
Kể từ năm 1964, phần lớn các bạn đều ra trường vào năm 1971 sau khi đỗ tú tài toàn phần, còn không ít các bạn phải sớm từ gã mái trường theo cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. Như thế, chúng ta rời trường, thời gian không giống nhau, nhưng trong thẳm sâu tâm khảm ngôi trường Phan Châu Trinh Đà Nẵng mãi là: "Ngôi trường đó là trong anh nỗi nhớ - Là trong em cả tuổi trẻ thiên thần" (Trần Hoan Trinh) . Và dẫu thời gian có là thoi dệt, hay bóng câu qua cửa thì tình bạn vẫn sáng láng, vẫn bền vững như tự thuở nào cùng hát "Phan Châu Trinh người chiến sĩ quốc gia bất diệt...", cùng đánh nhịp theo sự yêu cầu của thầy Hoàng Bích Sơn vào giờ nhạc đồng thanh ca: "Nào anh em ta cùng nhau xông pha lên đàng...", và cùng... Chính thời gian chứ không là gì khác giúp mình khẳng định một cách chắc nịch hơn tấm lòng bè bạn, nỗi nhớ về một ngôi trường của tất cả chúng ta. Cho nên, mình càng nôn nao hơn khi ngày gặp lại tất cả các bạn cùng khóa gần kề.
Từ tâm trạng này bỗng nhớ đến Nguyễn Hùng Kiện. Chiều thứ 5, mình đang soạn bài, bỗng điện thoại reo. Nhấc máy, nghe tiếng Kiện hớn hở báo tin và thúc hối: "Kỉ yếu in xong rồi, lên chỗ Trương Văn Thông, mình đem xuống cho xem". Vội vàng thu xếp bài vở, tắt máy, mình chạy lên "nhà sách" của Thông. Quái, hối thúc mà sao lâu đến vậy, mình trách Kiện. Gọi Thông vậy. Thông bảo đang ở nhà đợi Kiện. Gọi Kiện, Kiện bảo đến nhà Thông đón Thông lên luôn. Mình lầm bầm: Lại bắt người ta chờ, nôn nao quá! Nhưng rồi Thông đến, và Kiện đến. Mặt anh nào cũng tươi rói. Cái đầu bạc bỗng trở nên lạc lõng với nụ cười rất "trẻ thơ". Kiện mời đi làm li bia, gọi là khao anh em, mừng Kỉ yếu đã ra lò còn nóng hôi hổi. Ừ thì đi,... Thế là trừ cú nâng li "zô!" đầu tiên mừng "thắng lợi", còn thì kẻ chúi mũi dán mắt vào kỉ yếu, kẻ tâm sự về quá trình làm sách,... Ôi chao, sao mà thương thế. Sáu mươi rồi mà làm được một chút gì cho bằng hữu vui cũng mừng như bắt được vàng vậy.
Đọc Nguyễn Ngọc Ân, nhìn Nguyễn Hùng Kiện, Trương Văn Thông nôn nao, tôi thấy mình qua gương mặt bạn. VUI!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét