Thứ Ba, 15 tháng 5, 2012

140. KĨ NĂNG BÌNH THƠ

A. PHẦN MỞ ĐẦU
  1. Bình thơ, bình văn là một sinh hoạt văn hoá, văn học có truyền thống lâu đời khi con người có nhu cầu sáng tạo văn chương và thưởng thức cái đẹp nghệ thuật của thơ văn.
     a. Ở Trung Quốc, bình văn ra đời từ thời kì Chu Tần. Ở phương
Tây, sinh hoạt văn hoá văn học này xuất hiện mấy trăm năm trước công nguyên và đã được Aristotle nâng lên thành lí luận trong tác phẩm Thi pháp.
    b. Ở nước ta, bình văn ra đời cũng rất lâu. Đây là một sinh hoạt văn hoá ít nhiều có tính chất diễn xướng, có chức năng sinh hoạt. Bởi lẽ, lúc bấy giờ bình thơ văn chứa đựng hai yếu tố: đọc nghệ thuật và nhận xét giá trị nội dung và nghệ thuật. Đọc là chủ yếu, còn nhận xét thì nhẹ nhàng và vắn tắt.
      - Trong tiến trình phát triển của văn học nghệ thuật, nhất là khi bộ phận văn học thành văn ra đời (TK X), bình thơ có sự chuyển hoá, phần đọc mất đi chỉ còn phần nhận xét, đánh giá. Phần nhận xét đánh giá ấy gọi là lời bình và như thế gọi là bình thơ.
      - Lý Tế Xuyên (TK XIV) nhận xét về thần thoại trong Việt điện u linh, Hoàng Đức Lương (TK XV) viết lời tựa Trích diễm thi tập: “Thơ là màu ngoài màu, không thể lấy mắt thường mà xem được; cái vị ngoài vị, không thể lấy miệng thường mà nếm được.”; hay Tản Đà cho thơ Hồ Xuân Hương có quỷ (Thi trung hữu quỷ) là đã bình thơ bình văn rồi.
  2. Riêng với người tiếp nhận văn chương, bình là một cách cảm thụ và lĩnh hội cái hay, cái đẹp, cái độc đáo của thơ và đồng sáng tạo cùng tác giả. Người tiếp nhận không chỉ thẩm văn mà còn biết diễn đạt cái đẹp của văn chương nữa.
     Với học sinh, nắm được kĩ năng bình thơ là rất quan trọng và rất cần thiết. Học sinh không chỉ rèn luyện năng lực cảm thụ mà còn phải mài sắc năng lực thể hiện sự rung cảm thẩm mĩ của mình qua bài làm. Vì vậy, hình thành nhuần nhị thao tác bình thơ là một yêu cầu quan trọng của việc học văn. Bài viết có thật sự sâu sắc, có xúc cảm hay không là do thao tác bình thơ này.
B. PHƯƠNG PHÁP VÀ KĨ NĂNG BÌNH THƠ.
  I. Vấn đề khái niệm bình và bình thơ.
    1. Từ từ nguyên đến thực tiễn đời sống văn học.
       a. Theo các từ điển: Từ Hải, Từ nguyên, bình là bình luận, bình nghị; nhận xét phải trái hay dở của một sự việc. Theo Hán Việt từ điển của Thiều Chữu, bình là phê bình, bình phẩm, nghĩa là đem việc gì đã làm hay văn chương sách vở đã làm mà bàn vịnh hay dở phải trái.
       b. Trong thực tiễn đời sống văn học, các nhà lí luận phê bình văn học tài năng, giàu kinh nghiệm đã nêu ý kiến xác đáng về bình thơ.
         - Hoài Thanh: “Bình thơ là từ chỗ mình cảm thấy hay làm cho người khác cũng cảm thấy hay như mình”. Như vậy bình thơ là đem ấn tượng cảm xúc thẩm mĩ của mình truyền sang người khác để họ cùng rung động như chính mình trước cái đẹp của thơ ca.
         - Trương Chính: “Bình thơ cũng như đánh đàn đệm cho người ta hát, lên dây chùng một tí hay căng một tí cũng lạc điệu. Bình thơ mà nói chưa đến là không đạt; nói qua đi là tán. Bình thơ là biết dừng đúng lúc chọn đúng chỗ”.
         - Hoài Thanh cũng nói: “Người bình thơ cũng như người đệm đàn cho người ta hát, phải lùi lại để nâng tiếng hát tiếng thơ lên trước. Đệm đàn chớ để tiếng đàn át tiếng hát”.
    Vậy bình thơ cần phải có phương pháp, phải tinh tế, phải làm cho người đọc lĩnh hội thưởng ngoạn vẻ đẹp của thơ chứ không phải là lời bình thơ.
    2. Vậy bình thơ là gì ?
        Bình thơ là đem nội dung cảm thụ thơ ca của mình ra mà diễn đạt sao cho tế nhị sâu sắc, lời ít mà ý nhiều để người đọc cùng cảm thụ cái hay cái đẹp của thơ như chính mình.
  II. Một số phương pháp bình thơ.
    1. Phương pháp bình xét trên cơ sở đối tượng và dung lượng lời bình.
       1.1. Đối tượng bình phải là thơ hay gồm: thơ một thời đại, một trào lưu, một tác giả, một tác phẩm, một yếu tố nội dung hay nghệ thuật của bài thơ, một câu một chữ trong bài thơ.
       1.2. Về dung lượng lời bình: Đối tượng lớn lời bình ngắn, một đối tượng nhỏ lời bình dài hay bình nội dung nghệ thuật của bài thơ.
       1.3. Một số lời bình.

         
1.3.1. Đối tượng lớn lời bình cô đọng, ngắn gọn.
           - Lê Quý Đôn bình thơ đời Trần: “Thơ đời ấy tuy phần nhiều nói về đạo Phật, song đọc tới cũng đủ thấy nét lớn về phần âm thanh của chính giáo thời đó” (Thể lệ biên chép tập Toàn Việt thi lục).
           - Bùi Huy Bích bình thơ đời Trần, đời Lê: “Nước Việt ta, thơ đời Trần và đầu đời Lê thì hồn nhiên; thơ đời Hồng Đức thì trong đẹp; sau đó sút kém...” (Thi sao).
           - Tuy Viên (Viên Mai) bình thơ các nhà thơ đời Đường (Trung Quốc): “Ai có tính tình nấy. Thơ ông Đào ngọt, thơ ông Đỗ đắng; thơ ông Âu dựa dẫm nhiều, thơ ông Đỗ là tự mình sáng tạo. Vì thế các vị ấy không hợp nhau. Nguyên Chuẩn nói: “Chim không chạy, ngựa không bay, không cùng kiểu thì hiểu nhau sao được”” (Tuỳ Viên thi thoại).
         1.3.2. Đối tượng nhỏ lời bình dài.
         Giáo sư Lê Trí Viễn bình chữ giật mình trong hai dòng thơ Kiều:
                             Khi tỉnh rượu lúc tàn canh,
                      Giật mình mình lại thương mình xót xa.
     “Khi tỉnh rượu lúc tàn canh  là lúc con người tỉnh táo trong sáng. Bấy giờ nàng mới giật mình. Chao ôi ! Quý giá biết bao cái giật mình này ! Ví thử nàng tỉnh dậy không có cái giật mình ấy, Kiều bình thường biết bao nhiêu. Kiều có cái gì đáng quý đáng trọng đâu. Kiều giật mình là trở về với chính mình, với bản chất thơm tho cao quý của mình. Câu thơ ba chữ mình giày vò những tưởng trăm lần không hết sự xót xa” (Phỏng theo Lê Trí Viễn trong Bình thơ hay).
         1.3.3. Đối tượng bình là nội dung thơ ca.
          - Xuân Diệu bình bài thơ Chăn bằng giấy của người bạn tù của Hồ Chí Minh trong Nhật kí trong tù.
         “ Khi người bạn tù của Hồ Chí Minh đắp một cái chăn bằng giấy, Nhật kí có hai câu trần trụi mà xót xa:
                    Sách xưa sách cũ bồi thêm ấm
                    Chăn giấy còn hơ chẳng có chăn.
    Một vài câu thơ giản dị như thế mà sâu thăm thẳm một lòng nhân đạo, rất mực yêu thương con người, đó là cái chất lớn của thơ Nhật kí trong tù” (Và cây đời mãi mãi xanh tươi).
           - Lời bình một đoạn thơ của Nguyễn Trãi:
                    Danh thơm một áng mây nổi,
                    Bạn cũ ba thu lá tàn.
                    Lòng tiện soi dầu nhật nguyệt,
                    Thề xưa hổ có giang san.
    “Ta lấy làm lạ ! Tại sao Nguyễn Trãi lại nói: hổ thẹn với giang san ? Dường như Nguyễn Trãi không bao giờ tự bằng lòng về nhiệm vụ của mình. Dường như thi sĩ không bao giờ thoả mãn. Một cái gì vẫn xót xa đau đáu canh cánh bên lòng. Một vết thương nội tại nào của tâm hồn ông không bao giờ thôi nhói nhức đớn đau !
         1.3.4. Đối tượng bình là nghệ thuật thơ.
           - “Một câu chuyện đời thường không to tát có thể trở thành một bài thơ trữ tình, một nụ cười nhưng long lanh giọt lệ:
                    Trời mưa trời gió,
                    Đem đó ra đơm,
                    Chạy vô ăn cơm,
                    Chạy ra mất đó.
                    Kể từ ngày ai lấy đó đó ơi !
                    Răng đó không phân qua nói lại một đôi lời cho đây hay.
chỉ một từ  đó mà tiếng lòng của chủ thể trữ tình trong thơ rất xốn xang, dựng lại một cuộc tình tan vỡ và một lời trách móc ý nhị, đầy văn hoá”.
           - “Trong hơi lạnh đêm thu, ánh trăng trong bài thơ Trăng của Trần Nhân Tông vừa đẹp vừa dịu sáng:
                    Bên song đèn rạng sách đầy giường,
                    Khí lạnh đêm thu đượm giọt sương.
                    Thức dậy tiếng chày đà lặng ngắt,
                    Trên chùm hoa mộc nguyệt lồng gương.
    Tất cả tứ thơ dồn xuống câu kết. Ba câu trên chỉ là tả thực, câu cuối cùng cảnh vừa thực vừa đẹp huyền hồ như mộng và tâm hồn thi nhân như đắm chìm trong cõi mơ màng”.
        1.3.5. Đối tượng bình là nội dung lẫn hình thức thơ.
        - Bình bài thơ Xuân hiển của Trần Nhân Tông:
          Nguyên văn                    Dịch thơ
         Thuỵ khởi khải song phi,        Ngủ dậy ngó song mây,
         Bất tri xuân dĩ quy.            Xuân về vẫn chửa hay.
         Nhất song bạch hồ điệp,        Song song đôi bướm trắng,
         Phách phách sấn hoa phi.        Phấp phới tới hoa bay.
     “Bài thơ tràn dâng niềm yêu đời tha thiết. Phải tươi trẻ trong hồn mới nhạy cảm với mùa xuân như thế, mới bắt lấy hơi thở của tạo vật, cuộc đời trong cánh bướm đang phấp phới trên cánh hoa xuân mơn mởn. Lời  thơ nhẹ nhàng, bút pháp tinh tế, sinh động. Tình thơ lạc quan yêu đời. Bài thơ đẹp một vẻ đẹp nhân đạo trong thơ đời Trần”.
           - Bình bài ca dao:
                       Nhấp nhánh là nhấp nhánh ơi !
                       Mắt người nhấp nhánh như sao trên trời,
                    Yêu người lắm lắm người ơi !
              + Lời bình 1:
                    “Trời sinh con mắt là gương,
                      Người ghét ngó ít, người thương ngó nhiều.
    Đôi mắt là cửa sổ tâm hồn. Có phải vì thế mà chàng trai gọi người yêu, nhưng thầm thì cùng đối mắt của cô: Nhấp nhánh là nhấp nhánh ơi ! Từ láy nhấp nhánh lặp lại hai lần vẽ nên một đôi mắt cân đối, gợi cả màu sắc, cả cái chớp mi. Còn từ là lạ chưa ! Bình thường mang màu sắc biểu cảm trung tính, nhưng ở đây là hình như cũng hồi hộp, mang hơi thở bồn chồn, xốn xang như người đang gọi: Nhấp nhánh là nhấp nhánh ơi !”.
            + Lời bình 2:
     “Đôi mắt nhấp nhánh là nhấp nhánh ơi ! Rực lửa tình yêu mà kín đáo, đầy sức sống trẻ trung, nên:
                    Yêu người lắm lắm người ơi !
    Câu thơ lắng đọng bồi hồi mà da diết, dào dạt quá ! Chữ người hư hư thực thực, nhưng với chàng trai thì xác định. Hai từ lắm lắm nghe xôn xao ý tình. Chữ thứ hai bồi thêm cho chữ thứ nhất xiết mạnh, xoáy sâu và nồng cháy, bâng khuâng hơn trong tình cảm con người. Chàng trai như đang đứng đống lửa, như đang ngồi đống than ra ngẩn vào ngơ với tình” (Phỏng theo Bùi Mạnh Nhị).
    2. Những thao tác bình thơ cụ thể.
      2.1. Lối bình ấn tượng – cảm xúc.
       -         “Nửa đêm sương gội mái đầu,
                   Chòi cao phần phật mấy tàu lá khô.
                    Bộ đội nằm giữa rừng già,
                    Gió về thức tỉnh giấc mơ diệt thù.  (Ca dao)
    Không biết có gì ở trong cảnh chòi cao phần phật mấy tàu lá khô mà câu thơ hay đến thế ! (Hoài Thanh).
    -                   “Mưa lâm thâm ướt dầm lá hẹ,
         
               Em thương một người có mẹ không cha. (Ca dao)
    Từ lâm thâm thấm vào hồn chúng ta còn hơn là mưa !            (Huy Cận)
     2.2. Phân tích diễn ý thơ thành hình ảnh.
    -                 “Có phải duyên nhau thì thắm lại,
                    Đừng xanh như lá bạc như vôi.
                                (Hồ Xuân Hương - Mời trầu)
    Câu thơ như một bàn tay đưa ra, vừa da diết vừa yêu thương, vừa khinh khi thách thức. Đưa ra mà biết trước mặt không có ai !” (Tô Hà).
    -                 “Ngang lưng thì thắt bao vàng,
                        Đầu đội nón dấu vai mang súng dài.
                       Một tay thì cắp hoả mai,
                       Một tay cắp dáo quan sai xuống thuyền.
                       Thùng thùng trống đánh ngũ liên,
                       Bước chân xuống thuyền nước mắt như mưa.  (Ca dao)
    Mấy câu đó nói về anh lính thú đời xưa. Anh lính ấy bị vua quan buộc đi đánh dẹp các cuộc khởi nghĩa nông dân, chém giết những người cùng giai cấp. Anh phải làm trái với lương tâm và quyền lợi của mình. Cho nên có một con người giả và một con người thật trong mình anh lính thú ấy.
    Ta hãy để ý: bao vàng, nón dấu, súng hoả mai, dáo. Trên mình anh ta thắt, đội. mang, cắp; nhất nhất theo lệnh quan. Chân anh bước theo trống giục. Con người giả, con người công cụ ấy, choáng hầu hết bài ca dao, nặng đè lên con người thực. Một cái gì đó như nghẹn ngào tức tối. Đến khi con người thực vụt hiện ra được cuối bài thì câu thơ bỗng khóc oà lên – người ta không thấy gì ngoài dòng nước mắt Bước chân xuống thuyền nước mắt như mưa” (phỏng theo Hoài Thanh).
        2.3. Dựa vào quy luật tâm lí để bình thơ.
    -                 “Ước gì sông rộng một gang,
                          Bắc cầu dãi yếm cho chàng sang chơi. (Ca dao)
    Cô gái ấy nói hai điều không thực mà rất thực. Làm gì có chuyện sông rộng một gang. Trên dòng sông quá sức tưởng tượng ấy lại bắc chiếc cầu dãi yếm. Hai điều không thực. Nhưng có phép là mầu nhiệm nào hơn phép lạ tình yêu ! Tình yêu làm cho con sông hẹp lại. Có nhịp cầu nào xoá bỏ đôi bờ cách ngăn kì diệu hơn chiếc cầu dãi yếm.” (phỏng theo Trần Lê Văn).
         -         “Chuột kêu rúc rích trong rương,
                     Anh đi cho khéo kẻo đụng giường mẹ hay.
                     - Mẹ hay mẹ bảo đi đâu ?
                     - Con đi bốc muối cho mèo ăn cơm.  (Ca dao)
    Thơ lạc vần nhưng vẫn rất thơ. Đã hốt hoảng thì lời không hợp lí: Bốc muối cho mèo ăn cơm. Đã vội vàng bào chữa thì vần thơ cũng rụng rơi. Câu ca dao tưởng chẳng có chất thơ, nhưng vẫn dạt dào chất trữ tình; vô lí nhưng hợp lí, cái lí của tình yêu nên sâu sắc và dí dỏm”.
      2.4. Bình thơ dựa vào một giá trị thẩm mĩ nào đó của thơ.
         2.4.1. Quan hệ giữa đối tượng trữ tình và chủ thể trữ tình.
                      “Giả ơn cái cối cái chày,
                        Nửa đêm gà gáy có mày không tao.
                        Giả ơn cái cọc bờ ao,
                        Nửa đêm gà gáy có tao không mày. (ca dao)
     Thân phận nào, than thở nào đây ? Cái cối, cái chày, cái cọc bờ ao, những thứ quá quen thuộc nhưng cứ lạ mãi trong thơ đã trở thành tiếng nói buồn tủi bắt ta phải thương xót cảm thông. Bài ca dao có vị đắng của cuộc đời ở đợ ngày xưa. Con người ấy bị vắt kiệt sức, ném xuống tận đáy cuộc sống, bị loại ra khỏi thế giới loài người. Không đánh bạn quẩn quanh với những vật vô tri, con người ấy biết làm bạn cùng ai !” (Phỏng theo Hữu Thỉnh).
         2.4.2. Bình giọng điệu thơ.
           -   “Vui từ trong ngõ vui ra,
                 Buồn từ ngã bảy ngã ba buồn về.     (Ca dao)
    Đây là tâm sự của một người không gặp may ở cuộc đời, một trái tim thất vọng, một nỗi niềm uẩn khúc. Nếu không bài ca dao sẽ chẳng có giọng ấm ức và ngậm ngùi ấy.
           -     “Cha chài mẹ lưới con câu,
                   Ăn nhờ bọt nước lấy đâu làm giàu.  (Ca dao)
    Chỉ hai dòng lục bát mà tưởng như cả một bài thơ dài mãi vướng vít trong lòng ta một nỗi buồn thân phận. Kiếp sống khó nghèo, thân phận nổi nênh cứ mãi dập dềnh trôi dạt theo giọng thơ rời rã than van. Và ta như thấy rõ bóng hình cái gia đình người dân sông nước ấy ẩn náu trong cái bọt nước phù du giữa dòng đời mênh mông vô định.” (Phỏng theo Tế Hanh).
        2.4.3. Bình từ đắc từ thần trong thơ.
             -         “Trèo đèo hai mái chân vân,
                        Lòng về Hà Tĩnh dạ ái ân Quảng Bình.  (Ca dao)
    Thật đúng tâm trạng người Hà Tĩnh vô ở vô yêu ở Quảng Bình. Thế rồi chia li ! Chân bước tới đèo Ngang, tới đỉnh đèo, người đặt một chân ở lại mái Quảng Bình và một chân ở về mái Hà Tĩnh: Trèo đèo hai mái chân vân. Chân vân là tiếng ghép. Vân là phân vân, là dạ, là tâm trạng. Chân là chênh vênh, vừa hiện thực vừa tâm trạng. Người đi lòng về quê hương Hà Tĩnh mà dạ lại ở quê hương Quảng Bình.” (Phỏng theo Xuân Diệu).
         - “Người con gái ấy khép lại bài thơ bằng một nét chau mày:
                              Đừng xanh như lá bạc như vôi.
                                               (Hồ Xuân Hương – Mời trầu)
    Xanh là hiện thực. Thắm là yêu cầu. Thật oan cho từ xanh và cũng kì diệu sao tài năng của tác giả. Oan vì xưa nay, chúng ta quen xanh trong phạm trù phản ánh cái đẹp của cuộc sống:
                             Cỏ non xanh rợn chân trời,
                     Cành lê trắng điểm một vài bông hoa. (Truyện Kiều)
    Hay: 
                Nhà ngặt đèn xanh con mắt xanh (Nguyễn Trãi)
    Hồ Xuân Hương đã dồn hết xúc cảm, khát khao của mình vào chữ thắm. Chữ thắm cháy lên một yêu cầu bất di bất dịch. Và vì vậy, xanh sử dụng có lí và sáng suốt. Xét cho cùng cái bạc nào lại không bắt nguồn từ cái xanh. Chính xanh vỏ đỏ lòng ấy là thủ phạm, nguồn gốc sâu xa của sự ích kỉ, của tình đời đen bạc, đổi trắng thay đen”.
        2.4.4. Bình không gian và thời gian nghệ thuật trong thơ.
        - “Câu thơ nào đáng gọi là thơ cũng chứa đựng không gian, thời gian. Có câu chỉ gợi không gian, có câu chỉ gợi thời gian; nhưng cũng có câu trong đó không – thời gian bát ngát. Những câu thơ thoáng gió. Những câu thơ rộng mở của tâm hồn:
                    Trên trời có đám mây xanh,
                   Ở giữa mây trắng chung quanh mây vàng.
                   Ước gì anh lấy được nàng,
                   Thì anh mua gạch Bát Tràng về xây.
                   Xây dọc rồi lại xây ngang,
                   Xây hồ bán nguyệt cho nàng rửa chân.  (Ca dao)
    Không gian bát ngát lắm sắc màu tươi vui. Có chút thời gian gợi tâm tưởng Ước gì anh lấy được nàng. Thời gian của niềm mong ước kín đáo chảy trôi. Thêm bề sâu cho bầu trời kia, cho hồ bán nguyệt nọ.”  (Phỏng theo Huy Cận).
               -  “Có thương nhau thì thương cho chắc,
                    Bằng trục trặc thì trục trặc cho luôn.
                    Đừng làm chi như con thỏ đầu truông,
                    Khi vui giỡn bóng khi buồn giỡn trăng.    (Ca dao)
    Không gian đã rõ ràng. Còn thời gian ? Ấy là khi vui khi buồn. Thời gian được minh hoạ bằng không gian. Thời gian trập trùng thấp thoáng nơi bóng trăng và thấp thoáng trập trùng trong tâm tưởng nữa. Câu thơ trở nên vô cùng thoáng rộng. Con thỏ đầu truông tưởng chừng nhảy múa thênh thang trong cả khoảng trời mông mênh tràn ngập ánh trăng. Và vì vậy nỗi buồn trông của chủ thể trữ tình trong thơ tràn ra vời vợi, vừa trong lành vừa đau buốt vô cùng”.
         2.4.5. Bình tứ thơ.
               - “Ta nghe điều rất lạ, tứ rất lạ:
                    Anh thương em thì thương cho dày,
                    Đừng thương lã chã như ngày không thương. (Ca dao)
        Hay:            
                    Đôi ta từ giã nhau đây,
                    Nói sơ không hết, nói dày thảm thương.   (Ca dao)
    Ta đã nghe: nói ngọt ngào, nói như ru, nói mặn mà; còn nói sơ, nói dày quả là lạ. Khi người ta yêu nhau có nhiều cách nói: Thương thì thương cho chắc, nay lại dặn: Đừng thương lã chã. Tình yêu cũng nhiều ngôn ngữ, dặn nhau một điều khá lạ.” (Phỏng theo Chế Lan Viên).    
              - “Nghệ sĩ dân gian viết:
                    Khăn thương nhớ ai
                    Khăn rơi xuống đất
                    Khăn thương nhớ ai
                    Khăn vắt lên vai
                    Khăn thương nhớ ai
                    Khăn chùi nước mắt
                    Đèn thương nhớ ai
                    Mà đèn không tắt
                    Mắt thương nhớ ai
                    Mắt ngủ không yên
                    Đêm qua em những lo phiền
                    Lo vì một nỗi không yên một bề.
    Hàng loạt câu hỏi tu từ gợi liên tưởng. Hình ảnh cái khăn, ngọn đèn, nước mắt,... gợi tả nỗi dằn vặt khổ đau thao thức của người con gái thôn dã. Đoạn ca dao không trực tiếp miêu tả tâm trạng nhân vật. Bằng con đường gián tiếp, chiếc khăn, ngọn đèn, con mắt đã nhân vật hoá tâm trang cô gái một cách sống động; khiến người đọc liên tưởng đến người con gái và nghĩ về tâm trạng của cô. Cái vắng mặt hiện dần, sự hiện diện mở ra một trời liên tưởng, dung lượng ý nghĩa của thơ mở rộng như sự hiển nhiên, tất yếu.
       2.4.6. Bình nhạc thơ.
                    “Rắn mất đầu rắn sầu không chạy
                    Chim mất cánh chim chẳng biết bay
                    Từ ngày anh xa bậu tới nay
                    Cơm ăn chẳng đặng, áo gài hở bâu.  (Ca dao)
    Ngôn ngữ mộc mạc như lời nói bính thường, nhưng nhờ vần thơ hợp nhau thành một khối mà giàu chất thơ. Vần gieo trong bài đa dạng, lúc quấn quýt biểu lộ nỗi lòng xao xuyến nhớ thương (đầu, sầu); lúc thanh thản (bay, nay) nhưng suy tư. Và có lúc trầm nhẹ xuống (bay, nay, gài) như nỗi ngậm ngùi. Lạ hơn nữa trong cách nói: rắn không chạy và lạ trong cách nói ví von: Anh xa bậu như rắn mất đầu, như chim mất cánh.
      2.5. Bình thơ dựa vào lí luận văn học và mĩ học.
        - “Cảm quan vũ trụ và cảm quan sự sống quyện nhuyễn vào làm một. Thơ là cái này, thơ là cái nọ; nhưng chắc chắn thơ cũng là ánh chớp, là sự sáng bừng của cảm quan toàn diện ấy.
                    Gió đưa cây cải về trời
                    Rau răm ở lại chịu lời đắng cay. (Ca dao)
    Nhớ lại tuổi nhỏ ở quê nhà. Những buổi chiều quê, nhớ những vườn cải và những con ong làm cho hoa bay trong trời xanh. Cảm giác vũ trụ rưng rưng nơi những cánh hoa vàng lấm tấm quyện với cảm thụ đắng cay về cuộc đời: Rau răm ở lại chịu lời đắng cay.
              -  “ Mở đầu câu ca dao là tả cảnh bâng quơ:
                              Trời mưa bong bóng phập phồng
nhưng đến câu thơ thứ hai, người đọc bỗng giật mình, chính khung cảnh thiên nhiên đó làm nền cho một bi kịch nội tâm của người thiếu phụ goá chồng, làm bật lên một câu hỏi nhức nhối:
                    Mẹ đi lấy chồng con ở với ai ?
    Hai câu thơ thôi, nhưng là cả một thiên truyện đầy kịch tính. Người mẹ trẻ goá chồng ngồi ôm đứa con thơ, tựa cửa nhìn mưa xối xả ngoài trời mà lòng chị bào xé. Chị con trẻ quá ! Mưa buồn lê thê ! Hành trình hạnh phúc của chị nửa đường đứt gánh. Tâm hồn chị vẫn rạo rực yêu đương, khát khao hạnh phúc lứa đôi. Nhưng chị bước một bước nửa, con chị sẽ ở với ai ? Ý nghĩ về tương lai chợt bùng lên rồi tắt ngóm, bị chặn đứng lại. Chị bì vò xé day dứt. Câu hỏi dội lên trong lòng chị âm thầm mà khốc liệt. Chị tìm cách giải đáp và những câu trả lời lần lượt bị loại bỏ:
                    Con ở với bà, bà không có vú
                    Con ở với chú, chú là đàn ông
                    Con ỏ với ông, ông không biết mớm !
    Và chị cứ ngồi ôm con mà miên man, rối bời tâm trạng. Chị vẫn ngồi đó với nỗi buồn thân phận.
       2.4.6. Bình thơ bằng cách đưa giả thiết.
        - Bình câu thơ Sáng ra bờ suối tối vào hang (Tức cảnh Pắc Bó của Hồ Chí Minh) Chế Lan Viên viết:
         “Nếu viết: Tối vào hang sáng ra bờ suối, câu thơ sẽ sáng quá không hợp với tình hình lịch sử bấy giờ, nhởn nhơ quá không hợp với tâm hồn tác giả luc ấy. Câu thơ sẽ mở về phía suối, phía cảnh đẹp thưởng thức, phía thi sĩ hơn là khép lại phía hang, phía căn cứ hoạt động, phía nhà cách mạng. Nhưng ở Bác, con người thứ hai này mới là chính Bác “Lai vô ảnh khứ vô hình””.
        - Lê Trí Viễn bình hai câu thơ Kiều:
                            Hải đường lả ngọn đông lân
                        Giọt sương gieo nặng cành xuân la đà.
    “Cây hải đường lả ngọn sang nhà hàng xóm, cành lá đẫm sương, đẫm trăng, ướt rượt, hoa lên la đà. Đêm xuân, trăng xuân, sương xuân hoá thành sức xuân đang lên dào dạt khiến cành xuân nghe mình nằng nặng sà sà xuống thấp và ngọn xuân nghiêng lả qua rào nhà bên. Tả cảnh nhưng tả tình. Cái xôn xao bên trong cây lá là cái rạo rực trong lòng người, rạo rự đêm xuân, rạo rực tình yêu. Ví thử đổi đi vài chữ Hải đường lả ngọn đầu sân, âm điệu bằng trắc không thay đổi, nhưng câu thơ thuần tả thực; đánh mất vẻ đẹp của cây, của tình cảm trong lòng người. Chỉ có câu Hải đường lả ngọn đông lân mới nói được cây mà cốt nói đợc người như câu thơ cổ:
                    Xuân sắc mãn viên quan bất trú
                    Nhất chi hồng hạnh nhất tường lai.
                    (Sắc xuân đầy quá rào khôn xiết
                    Cứ vượt tường ra hạnh một cành)
      2.4.7. Bình thơ bằng cách liên hệ so sánh với bài thơ, câu thơ khác.
        - Liên hệ để củng cố.
         “Sông xuân, nước xuân, trời xuân, ba nét chính, ba thành viên của bức tranh xuân. Cũng như lạc hà, cô lộ, thu thuỷ, trường thiên là bốn nét chính của bức tranh thu trong bài phú Đằng Vương các tự của Vương Bột đời Đường. Đối với người xưa, khói sóng trên sông khiến người sầu (Hoàng Hạc lâu – Thôi Hiệu). Đối với Bác, khói sóng là nơi để bàn việc quân, ở đâu Bác cũng bàn việc lớn và đêm về chở một khoang trăng đầy” (Phỏng theo Huỳnh Lý).
    - Liên hệ bằng chuyện ngoài thơ.
         Tuỳ Viên thi thoại (Viên Mai) kể: “Ngư phủ từ đời Tống có câu:
                    Chớ lo trời tối về nhầm bến
                    Cứ nhắm nơi nao chuối vượt rào.
     Tôi trú ở am phóng sinh của Tây Hồ, ban đêm thường đi một mình dạo trên đường cầu gãy, lúc trở về hay sợ lạc đường, chỉ nhớ nhìn ánh đèn xa xa ở chùa Phật mà lần về. Nhờ chuyện ấy mới biết câu thơ Ngư phủ từ là hay”.
    - Liên hệ đến một hành động có ý nghĩa thực nghiệm.
    Bình ba chữ tầng khói phủ trong câu thơ: Nước biếc trông như tầng khói phủ trong bài Thu ẩm của Nguyễn Khuyến.
    “Tầng khói phủ, khói gì ? Khói thổi cơm chiều toả ra từ các mái nhà? Không có lẽ. Vậy là hơi nước bốc lên thành sương chiều, màu lam mờ mờ như khói. Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai là thứ khói sóng ấy. Trông như là so sánh nhưng không xác định, tạo ra cái gì lửng lơ, vừa là nó vừa không phải là nó. Nước biếc trong các ao chuôm lẫn vào trong sương mờ trông như có tầng khói phủ lên trên. Đó là đặc trưng của cảnh thu chăng.
    - Liên hệ đối lập với thơ đang bình.
         Bình bài thơ Thương vợ của Trần Tế Xương.
        “Ngày xưa các tác giả thường ít nói đến vợ mình. Có nói đến thì phần nhiều là khi vợ đã qua đời. Thỉnh thoảng mới thấy nói đến vợ đang còn sống. Cố nhiên cũng để ca ngợi đức thờ chồng của các bà. Nghĩa là các ông thương vợ nhưng với tư cách của một ông chồng phong kiến. Được thư và quà vợ gởi (Cao Bá Quát), Giã vợ đi làm quan (Phan Thanh Giản), Đưa vợ về Nam (Nguyễn Thông) không thoát ra khỏi tư tưởng ấy.
    Tú Xương không giống các nhà thơ ấy trong Thương vợ. Cho nên bài thơ có vị trí riêng trong văn chương.
C. KẾT LUẬN.
  1. Bình thơ là ta cảm thấy hay diễn tình cảm cảm xúc đó thành văn bản để người đọc cùng rung độc với mình. Bình thơ vì thế đa dạng đòi hỏi năng lực thụ cảm và có kĩ năng bình thơ tốt.
   2. Cảm thụ văn học là đồng sáng tạo với tác giả, bình thơ vì vậy luôn luôn là sự sáng tạo.
                                                   HD-2001

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét