1. Ngay từ tấm bé, tôi đã từng nghe kể câu chuyện tiếu lâm ba
anh học trò dốt làm thơ – bài thơ con cóc. Đây là bài thơ được
Trương Vĩnh Ký sưu tầm, in trong tập Truyện đời xưa xuất bản
lần đầu tiên năm 1866. Rồi lớn lên một chút, tôi lại nghe người
ta sử dụng thành ngữ “Thơ con cóc” để chê bai, cười cợt những
ai làm thơ nhưng thiếu cảm xúc, không có chất hoa mĩ của ngôn
từ, hoặc ý nghĩa nông sờ, hoặc sáo rỗng. Tôi nghe mãi nên
thành ám ảnh đến nỗi không dám làm thơ
dù lắm lúc cảm xúc
muốn tràn ra lênh láng, thậm chí đọc thơ của một nhà thơ nào
đó không thực sự có được sự rung cảm, tôi gọi bài thơ ấy là
thơ con cóc, nhà thơ ấy là thơ con cóc nữa. Và rồi, bài thơ con
cóc hiện ra thế chỗ cho bài thơ tôi vưa đọc :
Con cóc trong hang
Con cóc nhảy ra
Con có nhảy ra
Con cóc ngồi đó
Con cóc ngồi đó
Con cóc nhảy đi.
Cho đến một ngày, được đọc “THƠ, V. V… và V. V…” của Nguyễn
Hưng Quốc, tôi mới ngả ngữa ra. Hóa ra, bài thơ con cóc “trần
trụi tuyệt đối. Như một cành gai. Không có đến lá, đừng nói
gì là hoa. Nó thô tháp. Nó mạnh bạo. Nó sần sùi. Và cũng có
thể nói, nó tàn nhẫn nữa. Nó xóa bỏ hết mọi son phấn và
loại trừ hết tất cả mọi cảm xúc thừa thãi để bắt người đọc
một mình đối diện với sự vô nghĩa của cuộc đời. Không thể
có thứ ngôn ngữ nào giản dị hơn thế nữa. Nó có phần giống
thứ ngôn ngữ Albert Camus dùng khi viết Người xa lạ : rời, tẻ,
lạnh, không chỉ những từ thêu thùa, đẩy đưa mà cả những từ
nối, những từ có chức năng diễn giải, phân tích cũng bị tước
hết”. Bài thơ là điển hình của cái dở và “chủ đề của bài
thơ : nó không phải là bài thơ tả con cóc mà, qua con cóc, bài
thơ nói về sự trịnh-trọng-vô-nghĩa”. Theo Nguyễn Hưng Quốc, con
cóc như là một hình tượng ẩn dụ để nói về con người. “Trong
cuộc đời, chúng ta làm bao nhiêu công việc, đôi khi, một cách
cực kì nghiêm cẩn. Chúng ta dắn đo trước khi khởi sự. Đã đành.
Chúng ta còn có thói quen tự chiêm ngưỡng mình lúc đang hành
động. Chúng ta tự khoác lên chúng ta cơ man những hào quang lấp
lánh. Chúng ta lạm dụng tính từ để miêu tả, để tô vẽ việc
làm của chúng ta. Cuối cùng, chúng ta chỉ sống với sự diễn
dịch về cuộc đời chứ không phải với chính cuộc đời.”
Từ đó tôi nghĩ rằng, khi tiếp nhận thơ ca nói riêng văn học
nghệ thuật nói chung, phải chú tâm đến “cái thẩm mĩ”, giá trị
thẩm mĩ của chúng. Không chỉ những phạm trù đơn : cái đẹp,
cái bi, cái hài, cái cao cả là đáng quan tâm mà còn phạm trù
cái xấu cũng cần để mắt tới. Bởi văn học nghệ thuật miêu tả
cái xấu để hướng con người về phía cái đẹp kia mà. Và cũng
từ đó, tôi mới nhận thức cụ thể, tiếp nhận văn học có tính
chân dân chủ thực sự. Người tiếp nhận văn học luôn bị định
hướng bởi các nhà phê bình văn học, định hướng bởi thời đại;
nhưng quan trọng nhất là : người đọc phải có một cái nhìn
riêng, cái nhìn từ tọa độ tâm hồn và tư tưởng của chính mình.
2. Nhớ lại những ngày ra công tác ở Nghệ An năm 1997. Vào một
buổi sáng, trên đường lên huyện Tương Dương, ngồi trong xe, mọi
người kể cho nhau nghe những câu chuyện tiếu lâm để quên sự mệt
nhọc của đường dài. Anh Phó giám đốc Sở Giáo dục và Đào
tạo Nghệ An đã kể câu chuyện bốn cụ đồ Nghệ uống trà làm
thơ. Có bốn cụ đồ Nghệ rất khắng khít với nhau, họ thường
cùng nhau thưởng thức trà, mỗi cụ ứng khẩu một câu thơ, tạo
thành một bài thơ. Một ngày kia, các cụ quây quần bên khay trà,
nhưng bí đề tài. Chợt một cụ thấy con chó nằm dưới gầm
phản, bèn đề nghị mỗi cụ làm một câu thơ vịnh “cậu chó”. Bài
thơ hoàn thành như sau :
Chẳng phải voi mà chẳng phải trâu
Đuôi thì ve vẫy miệng gâu gâu
Khi nằm với vợ thì phải đứng
Cả đời không được uống chè Tàu.
Nghe xong, ai nấy cười ngặt nghẽo, chảy nước mắt nước mũi!...
Bài thơ này tôi đã mang về kể làm quà cho nhiều người bạn
nghe… Ai cũng khen câu chuyện, đặc biệt là bài thơ gây cười rất
thú vị. Và rồi theo thời gian tôi đã quên bén đi câu chuyện và
bài thơ. Nhưng rồi một hôm, ngồi cạnh con chó nhỏ của nhà nuôi,
vuốt ve nó, tôi bỗng nhớ đến bài thơ. Đúng là bài thơ có
mục đích giải trí “mua vui cũng được một vài trống canh”, nhưng
cũng có ý nghĩa nhân sinh tích cực. Bởi đằng sau giọng điệu
tếu táo cợt cười ấy, vẫn có giọng thương cảm cho con vật nuôi
có nghĩa. Nếu hai cầu đầu là tả thì hai câu sau đã bộc lộ
cảm xúc của những người làm thơ. Cái kiếp vật sao mà tội
nghiệp đến thế. Những cái gọi là hạnh phúc bình thường vẫn
không bao giờ được hưởng một cách bình thường, hoặc không bao
giờ hưởng được. Con chó ấy luôn sống trong một trạng huống trớ
trêu trong đời sống “vợ chồng” hay cả đời chẳng hưởng thụ
được một lối sống tinh thần thanh đạm mà thanh tao. Như thế,
bài thơ đâu phải để cười một con vật mà cảm thông chia sẻ với
số phận con vật. Phải chăng tình cảm đó đã thể hiện cái nhìn
nhân đạo của con người trước các hiện tượng sự vật trong cuộc
sống, trong thế giới tự nhiên ? Bài thơ cũng khiến tôi nghĩ
đến “cậu Vàng” trong truyện ngắn “Lão Hạc” của Nam Cao. Rồi
thổn thức, ăn năn cùng lão khi lão Hạc lừa bán cậu vàng cũng
chính là bán đi tâm hồn của chính mình!
3. Mới đây, trò chuyện với một anh bạn, được anh kể cho tôi
nghe một câu chuyện kèm theo một bài thơ. Chuyện cũng có những
nhân vật làm thơ như hai truyện trên, nhưng rất khác. Truyện kể
rằng có 5 phụ nữ đã cao tuổi, tai cũng đã nghễnh ngãng đang
ngồi hóng mát ở công viên. Bỗng một cụ cất tiếng : “Tốt mốc
thì ngon tương”, cụ thứ hai nghe tiếng được tiếng mất, chỉ thấy
cụ kia mấp máy miệng nên tiếp lời : “Gà già thì lắm xương”
và cụ thứ ba… Đến cụ thứ năm thì bài thơ hoàn tất.
Tốt mốc thì ngon tương
Gà già thì lắm xương
Đi chùa phải thắp hương
Vườn rộng lắm ễnh ương
Con nhỏ ai không thương.
Bài thơ có cấu trúc không chặt chẽ, bởi mỗi câu thơ là một
sự thực trong suy nghĩ của mỗi cụ già. Cho nên, nêu người đọc
đảo vị trí, thay đổi thứ tự của năm câu thơ thì bao giờ cũng
có câu một nêu lên một hiện tượng, còn bốn câu còn lại đồng
tình với người phát ngôn về hiện tượng đã nêu. Điều này là do
các cụ nặng tai, không nghe được lời người phát ngôn trước đó
mà chỉ phán đoán về phát ngôn ấy theo tâm trạng và từ sự
trải nghiệm của riêng bản thân mình. Dù các câu thơ được lắp
ghép rời rạc ngẫu nhiên, nhưng tất cả đều hiệp vần theo lối
độc vận rất kết dính và hài hòa, tạo nên sự quyện chặt của
ý tình, qua đó thể hiện sự thấu cảm, sẻ chia tình cảm giữa
các cụ với nhau. Đọc bài thơ sau khi nghe câu chuyện ta có cảm
giác nó hài hước, nhưng sự thực bên trong từng câu thơ chứa
đựng một chân lí, một sự thực không ai có thể chối cãi được.
Nhưng với bài thơ này, ta có thể nói rằng thơ không chỉ ra đời
từ ý thức người tạo tác mà còn ra đời từ tiềm thức hay vô
thức nữa. Có được những câu thơ hay đôi khi người sáng tác nhặt
ra từ những giấc mơ. Phải chăng đây là siêu thơ hay thơ giấc mơ
theo quan niệm của một số nhà thơ phương Tây. Quan niệm như thế
nên một nhóm nhà thơ đã tìm đến ngủ trong một phòng với nhau.
Khi ngủ phải có một một người thức để ghi những lời nói thơ
do những người ngủ trong giấc mơ nói ra hay nói mê cũng thế,
rồi sau đó ghép lại thành bài thơ. Không biết đây là giai thoại
hay là thật, nhưng dẫu sao tôi vẫn thấy có gì đó gần gũi với
bài thơ của các cụ bà đã được người bạn kể cho nghe.
20-12-2011
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét