Trong thiên Tri âm, Lưu Hiệp từng viết: “Tri âm thực khó thay.
Cái âm thực khó biết, người biết thực khó gặp. Gặp được người tri âm nghìn năm
mới có một lần”. Lời của tác giả cuốn “Văn tâm điêu long” quả thật chí lí. Chí
lí bởi tri âm ở cuộc đời đã khó mà tri âm
trong văn chương lại càng khó hơn.
Sinh thời Nguyễn Du cũng với vọng “ai
tri âm đó” trong sự mờ mịt của thời gian:
“Bất
tri tam bách dư niên hậu
Thiên
hạ hà nhân khấp Tố Như”
(Độc Tiểu Thanh kí)
Nhưng Nguyễn Du
cũng như Lưu Hiệp đều cảm nhận sự khó gặp gỡ chứ hoàn toàn không phủ nhận sự
gặp gỡ, họ khẳng định sự gặp gỡ chỉ là vấn đề thời gian. Riêng Nguyễn Du (1765
- 1820), không đợi đến ba trăm năm như ông đã cảm hiểu nàng Tiểu Thanh, mà chỉ
sau hai trăm năm (1965), những hậu duệ văn chương của ông đã hiểu và cảm được
tấc lòng của ông kí thác trong thơ ca. Và một điều bất ngờ, thú vị nhất là
những ý tưởng lí luận văn học của đại thi hào dân tộc ta đã “gặp gỡ” với người
cùng thời dù cách bức không gian, đó là nhà thi học: Viên Mai. Chỉ có điều
Nguyễn Du “hình tượng hoá, nghệ thuật hoá” những vấn đề lí luận về thơ, còn
Viên Mai thì “khái niệm hoá, khái quát
hoá” mà thôi. Nguyễn Du gián tiếp trình bày ý tưởng lí luận văn học qua những
tác phẩm của ông như “Truyện Kiều”, “Văn Chiêu hồn”, những bài thơ trong các
tập “Bắc hành tạp lục”, “Nam
trung tạp ngâm”,... Viên Mai lại trực tiếp bộc lộ những quan điểm lí luận phê
bình thơ của ông ở “Tuỳ Viên thi thoại” [1]
và rải rác trong tập “Tiểu Thương sơn phòng thi văn tập”của mình.
Quan niệm về văn
chương của hai ông rất phong phú và sâu xa, cần phải dày công nghiên cứu. Do
vậy, bài viết này cũng chỉ mạo muội khuôn hẹp vào một vấn đề nhỏ: quan niệm của
Nguyễn Du và Viên Mai về nhà thơ .
1. Khi bàn về thơ
và nghệ sĩ sáng tạo, ý tưởng lí luận của Nguyễn Du không phải không có chút mâu
thuẫn. Ông cho thơ ca quyết định thân phận nghệ sĩ, thậm chí đối lập với thân
phận của họ. Trước mộ nhà thơ hiện thực lớn đời Đường, Đỗ Phủ, ông cất tiếng
hỏi đồng cảm thiết tha:
“Nhất
cùng chí thử, khởi công thi”
(Ông
cùng khổ như thế há phải vì hay thơ)
(Lỗi
Dương Đỗ Thiếu Lăng mộ)
Và ông cũng buồn
bã dặn lòng “có tài mà cậy chi tài” và
tự hỏi chính mình:
“Văn
tự hà tằng vi ngã dụng
Cơ hàn bất giác thụ nhân tiên”
(Văn
tự có ích gì cho ta
Đâu
ngờ phải đói rét để người thương xót)
(Khất
thực)
Nhưng rồi ông
thoát ra khỏi tư tưởng “tài mệnh tương đố”. Thi sĩ tĩnh tâm suy nghĩ, thơ chẳng
có tội tình gì, thơ thăng hoa nghệ sĩ như Viên Mai viết: “Thơ hay đổi xác thành
tiên được” (Ngâm thi hảo tự thành tiên cốt). Nguyễn Du nhận thức văn chương
không hề ghét số mệnh, không hề đày ải
nhà thơ vào chốn eo nghèo:
“Bản
vô văn tự năng tăng mệnh”
(Vốn
chẳng có văn chương nào ghét được số mệnh)
(Tự
thán)
Văn chương có thể
là “nghiệp”, nhưng chẳng bao giờ là nghiệt chướng xô đẩy nghệ sĩ vào nơi cùng
quẫn, bần hàn:
“Vị
hữu văn chương sinh nghiệt chướng”
(Chưa
từng có chuyện văn chương sinh ra nghiệt chướng)
( Ngoạ bệnh )
2. Cho dù chưa
thật sự nhất quán trong ý tưởng lí luận, nhưng Nguyễn Du trước sau vẫn nhận
thức rõ giá trị của văn chương và vai trò của người sinh thành thi ca. Đó là ý
nghĩa tích cực, là cái phần cơ bản nhất, cốt lõi nhất trong ý tưởng quan niệm
về thơ và nhà thơ của ông. Trước hết, theo ông, nhà thơ cần có cái nhìn nghệ
thuật về con người và cuộc đời.. Nhà thơ sống giữa cuộc đời, nhặt lấy chất liệu
trong đời mà kết dệt nên những vần thơ của mình:
“Trải qua một cuộc bể dâu
Những
điều trông thấy mà đau đớn lòng”
(Truyện
Kiều)
Nhà thơ có thể từ
đời thực mà tạo thành hiện thực văn xuôi hay hiện thực trữ tình, điều đó tuỳ
thuộc vào phương thức chiếm lĩnh nghệ thuật của nhà thơ. Vấn đề cơ bản nhất là
nhà thơ phải viết từ “những điều trông thấy” trong bể dâu đời thường bằng tấc
lòng nhân ái, bằng tình yêu cái đẹp của mình. Điều này được Nguyễn Du nhấn mạnh
trong “Thái Bình mại ca giả”:
“Ngã sạ kiến chi, bi thả tân”
(Ta trông thấy đau lòng không xiết)
Quan niệm của
Nguyễn Du cũng chính là của Bạch Cư Dị, nhà thơ Trung Quốc, nhà thơ của đỉnh cao tư tưởng hiện thực -
nhân dân: “Tôi ở Trường An, trong những điều tai nghe mắt thấy có những câu
chuyện thật đáng thương, bèn nhân đó viết thẳng ra thành thơ gọi là Tần trung
ngâm (Tựa Tần trung ngâm). Thơ phải từ hiện thực mà bay lên và đem lại cho con
người nhận thức thẩm mĩ về cuộc sống, xã hội một cách chân thực và bản chất
nhất: “Chỉ có làm thơ về nỗi đau khổ của nhân dân. Để cho thiên hạ được biết
đến” (Duy ca sinh dân bệnh, Nguyên đắc thiên hạ tri) (Thương Đường cú).
Nhà thơ sáng tạo thi ca không chỉ để tự biểu
hiện mà quan trọng nhất là để cho thơ thực hiện chức năng xã hội thông qua chức
năng nghệ thuật của nó. Tác phẩm thơ phải được tạo tác từ ý thức thẩm mĩ của
nhà thơ nhằm giáo dục thẩm mĩ cho mọi người:
“Ai vẽ bức tranh này
Dâng lên nhà vua rõ”
(Sở kiến hành)
Viên Mai đã hội
ngộ với Nguyễn Du điểm này. Viên Mai không dùng hình ảnh “Những điều trông thấy
mà đau đớn lòng” như Nguyễn Du. Ông đề xuất thuyết “Tính linh” và cho rằng
“Tính linh” là cội nguồn gốc rễ của thơ
ca. “Tính linh” trong thơ là ở chỗ, nhà thơ miêu tả những cảnh ngộ của
tính tình và linh cảm cá nhân của chính mình:
“Chịu
khó tìm thơ sẽ có thơ,
Tâm
linh điểm ấy, chính thầy ta”
(Tiểu Thương)
Thuyết “Tính linh” của Viên Mai không phải là
thuyết “Tâm học” mà một phần bắt nguồn từ tư tưởng duy vật và dân chủ của Hoàng
Tôn Hi, Cố Viêm Võ và Vương Phu Chi trong: “Minh học nho án” và “Chu Dịch ngoại
truyện”. Các nhà duy vật - dân chủ này cho rằng, “tâm” không có bản thể: “Tâm
tức là khí ”, “tâm” không thể tách rời với “khí ” hay sẽ không có “tâm linh”
nếu không có “cảm quan tai mắt”. Bắt nguồn
từ cơ sở triết học như vậy, nên thuyết “Tính linh” của Viên Mai đã không tách
rời thơ ca với hiện thực. Trong “Tuỳ Viên thi thoại” ông viết: “Thơ khó ở chỗ
chân thật, mắt chưa thấy, chân chưa đến mà cũng miễn cưỡng cứ làm, thì chẳng
khác nào phơi lưng dưới mái nhà tranh mà cao giọng bàn về điện Kim Loan”. Tuy vậy, thuyết “Tính linh” của
Viên Mai chỉ có tính hiện thực mà thiếu tính nhân dân, do đó tính hiện thực của
thơ ca theo quan niệm của ông cũng không phải là hiện thực rộng lớn mà chỉ là
hiện thực bên trong- hiện thực được cái tôi nhà thơ xúc cảm. Trong khi đó, qua
ý tưởng lí luận của mình, Nguyễn Du khẳng định, nhà thơ phải từ cuộc đời mà
sáng tạo thế giới hình tượng thi ca. Có như vậy, thơ mới có tính hiện thực - nhân dân sâu sắc.
Làm thơ là kết
tinh “vị mặn” của đời một cách nghệ thuật. Hiểu như thế mới thấy thuyết “tính
linh” của Viên Mai đã thể hiện rõ nguyên lí sáng tạo thơ ca. Nhà thơ không ngồi
chờ thơ đến mà tìm tòi tứ thơ từ hiện thực cuộc sống và hiện thực tâm hồn mình.
Nhà thơ phải nội tâm hoá hiện thực và biểu hiện bằng những vần thơ giàu chất
suy tư mà hồn nhiên. Không phải ngẫu nhiên, Viên Mai thường nhắc đến các từ:
“thâm”, “thiển”, “cam”, “khổ”, “nồng” và “đạm”. Thơ cần có sự sâu xa mà hồn
nhiên, cần có đắng cay lẫn ngọt bùi. Nhưng để thơ có những tố chất ấy thì trước
hết nhà thơ cũng phải “thâm”, “thiển”, “cam”, “khổ” cùng con người và cuộc đời.
Nhà thơ cần làm cho thơ có chất suy nghĩ sâu xa, nếu không thơ sẽ “không có hoa
là gỗ khô, có thịt mà không có xương là con sâu mùa hè vậy” (Thi hữu cán vô
hoa, thi khô mộc dã. Hữu nhục vô cốt thi hạ trùng dã). Hiện thực dù đắng chát,
xấu xa, nhà thơ tái hiện không ngoài mục đích nào khác là hướng con người về
phía cái đẹp, cái thiện. Lao động nghệ thuật của nhà thơ dù cay khổ, nhưng thơ
ca phải đẹp: “Cái suy nghĩ được mặc dù khổ đắng, nhưng nói ra phải ngọt ngào.
Cái nói ra có thể bất ngờ với người khác, nhưng vẫn nằm trong ý của họ” (Đắc
chí tuy khổ, xuất chí tu cam. Xuất nhân chi ý ngoại giả, nhưng tụ tại nhân ý
trung). Nhà thơ sáng tạo là vắt kiệt tâm hồn, ý tưởng mình; quằn quại trong cơn
đau tinh thần để dâng tặng đời những “Bông hồng vàng” quý đẹp nhất. Nhà thơ
luôn tự đặt ra cho mình một phương châm sáng tạo, đó là “ý sâu nhưng lời dễ,
nghĩ khó nhọc nhưng lời ngọt ngào” (ý thâm từ thiển, tứ khổ ngôn cam).
3. Thuyết “Tính linh”
trong quan niệm nghệ thuật thơ ca của Viên Mai không chỉ là nhà thơ lẫy ra một
mảng hiện thực cuộc sống hay hiện thực tâm hồn mình để làm xương cốt cho thơ mà
còn đặt ra vấn đề cảm xúc sáng tạo thi ca của người nghệ sĩ nữa. Đây cũng là
điều mà Nguyễn Du đã thể hiện trong ý tưởng lí luận về nhà thơ của mình ở
Truyện Kiều.
Cảm xúc thẩm mĩ là trạng thái nhiệt hứng đặc
biệt của tâm hồn, đấy là một tâm hồn có sự chuyển hoá sóng gió cuộc đời thành
sóng gió của sự sáng tạo. Sáng tạo thơ ca là sự nhào nặn chất thơ của trời đất
và cuộc đời thành hồn thơ, thành sự rung động mãnh liệt của tâm hồn thi nhân.
Trong “Truyện Kiều”, Nguyễn Du đã từng qua những lần Thuý Kiều làm thơ mà gởi
gắm ý tưởng lí luận của mình. Tuỳ theo mục đích sáng tác, thơ cho mình hay thơ vì
người của nàng Kiều, Nguyễn Du đã bộc lộ những quan niệm khác nhau về nhà thơ.
Khi Thuý Kiều làm thơ theo yêu cầu của quan xử kiện, Nguyễn Du viết:
“Ngàn
vàng cất bút tay đề
Tiên
hoa trình trước án phê xem tường”
Cho dù là “ngàn
vàng” những cũng chỉ là “cất bút tay đề”. Kiều chỉ làm thơ mà không phải người
thơ. Nhưng khi Kiều đề vịnh tranh của Kim Trọng, vịnh thơ trước mộ Đạm Tiên thì
“Tay tiên gió táp mưa sa”, “thảo và bốn câu”, “vịnh bốn câu ba vần” Phải chăng
sự khác biệt trong những lần Kiều làm thơ là ở: “đề”, “thảo” và “vịnh” ? Phải
chăng thơ đã bay lên rất cao và rất xa nhờ sự tự do sáng tạo và cảm xúc sáng
tạo của cô Kiều - người nghệ sĩ. Và phải chăng bản chất văn chương là tình cảm
thẩm mĩ, do Kiều “sẵn mối thương tâm” trong lòng, nên thơ tuôn tràn. Đúng là nhà thơ có thực sự rung động hồn thơ thì ngòi bút mới
thật sự có thần như người xưa đã nói.
Tuy nhiên, quan
niệm của Nguyễn Du về khía cạnh này cũng chỉ dừng lại ở mĩ học sáng tạo về
tiếng nói trữ tình - hướng nội của thơ mà thôi. Trong khi đó thơ cơ bản là
tiếng nói trữ tình bên trong có kết hợp và hướng tới cái tiếng nói trữ tình bên
ngoài. Sáng tác thơ là biểu hiện “cái Tôi” thi sĩ và biết làm cho “cái Tôi” ấy
nói lên được “cái Ta” của mọi người.
Viên Mai cũng có ý
ấy trong thuyết “Tính linh”. Ông bàn về hứng bút của nhà thơ: “Gọi nghìn lần
không ra, đột ngột lại đến” (Thiên triệu bất lai, thương tốt hốt chi). Nói “đột
ngột lại đến” chính là “phút linh cầu” (Huy Cận), khoảnh khắc “diệu ngộ”
(Nghiêm Vũ). Ở chỗ khác ông nói: “Thơ thích đạm chứ không thích nồng, nhưng
phải là sự đạm sau khi đã nồng” (Thi nghi đạm bất nghi nồng, nhiên tất tu nồng
hậu chi đạm). “Nồng” và “đạm” là nội dung, phẩm chất nghệ thuật của thơ. “Nồng”
và “đạm” quan hệ biện chứng với nhau trong sáng tạo và trong tác phẩm thơ.
Nhưng về phương diện sáng tạo của nhà thơ, “sự đạm sau khi đã nồng ” là quá
trình sáng tạo tác phẩm thơ. “Nồng” là cái có trước, là cảm tính - trực giác
nghệ thuật, là khởi nguyên, là cảm hứng sáng tạo; “đạm” là cái có sau, là lí
tính, là phương thức thể hiện, chuyển hoá cảm xúc sáng tạo ấy thành tác phẩm
nghệ thuật. Tất nhiên cái “nồng” thi
hứng ấy có trong nhà thơ và tản mạn trong trời đất, trong cuộc đời. Thi hứng
chỉ có thể nẩy nở từ trong mối quan hệ giữa nhà thơ và chất thơ của các sự vật,
hiện tượng tự nhiên và xã hội. Do vậy, nhà thơ không thể ngồi yên đợi cảm hứng
đến mà phải bước xuống cuộc đời góp nhặt nó, chắt chiu nó, làm cho nó hoá thân
thành thơ. Và một khi có hứng rồi, nhà thơ phải nuôi dưỡng và phát triển nó
“nồng” hơn mới có thể có được một tác phẩm thơ đích thực “thi nghi đạm bất nghi
nồng”. Để được như vậy, Viên Mai nhắc nhở các nhà thơ, khi làm thơ cũng cần
phân biệt những điều sau: “Thanh đạm khác với khô khan, tân kì khác với gọt
dũa, chất phác khác với quê mùa, mạnh mẽ khác với thô lỗ, bóng bẩy khác với vu
vơ,…”
Và nhà thơ cần huy động năng lực bẩm sinh và cả công phu để đạt được “cả
bài lẫn từng câu đều khéo”, tức là tác phẩm thơ phải là một chỉnh thể nghệ
thuật giàu tính thẩm mĩ.
4. Người nghệ sĩ
nói chung và thi nhân nói riêng là một cá thể “sinh nở” “đứa con tinh thần” của
mình. Tác phẩm nghệ thuật là máu thịt tâm hồn của chính họ. Tác phẩm thơ là ấn
tượng và cảm xúc của người thơ trước vũ trụ, trước “cõi người ta”. Nguyễn Du
hiểu rất rõ điều đó nên ông đã để Thuý Kiều dịch chuyển tất cả ấn tượng ban
ngày gặp gỡ Kim Trọng sang thơ bằng tài năng của nàng:
“Ngổn
ngang trăm mối bên lòng
Nên
câu tuyệt diệu ngụ trong tính tình”
Và khi ở lầu Ngưng
Bích, cô đơn giữa “nước non người”, Kiều đã gởi lòng mình vào nghệ thuật. Nàng
đã kí thác nỗi “đau lòng lưu lạc” của
mình vào “nên vài bốn câu” như là một sứ điệp thi ca mong cầu đồng cảm sẻ chia.
Là con người của
tình cảm và hiểu rõ bản chất của văn chương là tình cảm thẩm mĩ, nên Nguyễn Du
thường gắn tác phẩm nghệ thuật với tác động tình cảm của con người và cho đó là
sức mạnh của văn chương:
“Tiêu
điều lữ thứ muộn thời ca”
(Tạp ngâm)
Qua tiếng đàn đầy
nước mắt của Thuý Kiều ở nhà Hoạn Thư, người nghe đàn như đắm chìm giữa cung
điệu bi thương, bị tiếng đàn sầu não cứa rách tâm hồn: “Khiến người trên tiệc
cũng tan nát lòng”. Tả tiếng đàn của
Thuý Kiều, nhưng thực chất Nguyễn Du đã kín đáo bày tỏ quan niệm về hoạt động
sáng tạo của người nghệ sĩ. Sáng tạo nghệ thuật mà không xuất phát từ hơi ấm
nhân tình - nhân tính của nhà thơ thì sẽ không có tác phẩm nghệ thuật đích
thực. Tả tâm trạng người nghe đàn cũng chính là bàn đến mĩ học tiếp nhận ở
phương diện tri âm. Nguyễn Du sáng tác “Truyện Kiều” cũng từ “chữ tâm kia mới
bằng ba chữ tài”, từ nỗi “đau đớn lòng” của ông. Người sinh thành nàng Kiều
cũng chính là Kiều về phương diện làm thơ đánh đàn. Và nếu Kiều làm thơ đánh
đàn là đi tìm tri âm thông qua tác phẩm thì Nguyễn Du nào khác gì hơn. Xét cho
cùng, “Truyện Kiều” là “dụng tâm đã khổ” (Mộng Liên Đường chủ nhân) của Tố Như
ở nhiều bình diện khác nhau của sáng tạo và tiếp nhận văn học.
Tác phẩm thi ca là
tư tưởng và tình cảm của nghệ sĩ sáng tạo. Chính bản thân tình cảm ấy trong thơ
sẽ tạo được hiệu quả, khoái cảm thẩm mĩ đối với người thưởng thức. Để có được
phẩm chất và tác dụng ấy, nhà thơ phải viết từ
sự “tẻ vui” của lòng minh trước “những điều trông thấy”mà mình “Sở kiến
hành”. Và nhất là, nhà thơ đừng bao giờ để “Văn chương tàn tức nhược nhi ti”
(Hơi tàn, văn chương mảnh như sợi tơ). Nhà thơ có thể già và chết, nhưng hồn
thơ và thơ phải luôn trẻ, luôn xuân thì và phải có cái “ma lực siêu việt thời
gian” (Xuân Diệu).
Ý tưởng trên của
nhà thơ lớn của Nguyễn triều cũng là suy nghĩ về gốc rễ sáng tạo thơ ca của nhà
thi học đời Thanh. Nguyễn Du đề cao cái tài, cái tình của nghệ sĩ thì Viên Mai
cũng nhấn mạnh tình cảm và cũng không
xem nhẹ tài hoa của người tạo tác nghệ thuật. Ông viết: “Người ta làm thơ đông
dồn tây dập, tả hữu vẽ vời, từ trong đống giấy mà ra, không phải tính tình tuôn
chảy. Đó là lấy bàn tay thay cho tấm lòng vậy”. “Lấy bàn tay thay cho tấm lòng”
là dùng kĩ thuật mà cưỡng đoạt nghệ thuật, đặt lí trí lên trên cảm xúc. Thơ
phải từ suối nguồn “tính tình tuôn chảy”, chứ không phải “từ đóng giấy mà ra”.
Tình cảm là cốt tuỷ của thơ, “thơ có ý vị là nhờ tác giả có tính tình”. Nhưng
nếu nhà thơ không thực tài, không chiếm lĩnh những phương tiện nghệ thuật thì
thơ cũng chỉ là một thế giới tĩnh tại; chỉ là thể phách chẳng còn là tinh anh.
Tình nhờ tài mà phát sáng, bừng bừng xúc cảm nghệ thuật; tài có sự hỗ trợ của
tình nên đạt đến chỗ linh diệu của thi ca.
“Nếu không có tài uyên thâm, thì cũng khó nói được cái kì diệu của những
lời hay”. “Tài là chính từ tình phát ra, tài cao ắt tình sâu” (Tài giả, tình
chi phát, tài thịnh tắc tình thâm).
Phải chăng Nguyễn
Du và Viên Mai cùng tri âm với Lưu Hiệp ở phương diện này: “Tài tuy trời phú
cho, nhưng cố công học tập thì dần dà cũng có thể bổ sung được những điều còn
thiếu sót” (Thể tính - Văn tâm điêu long).
5. Nước sẽ chảy
xuôi, nhưng nước mãi vẫn là nước. Thơ chẳng là thơ khi thơ không in đậm phong
cốt của người sáng tạo. Không công phu
sáng tạo và không có cá tính của nhà thơ thì thơ chẳng sống lâu.
Cứ xem Nguyễn
Du miêu tả nàng Kiều như là một nghệ sĩ
tài hoa, chiếm lĩnh phương thức, phương tiện nghệ thuật thì sẽ rõ. Khi thì
Kiều: “Tay tiên một vẫy đủ mười khúc ngâm”, lúc thì nàng: “Tay
tiên gió táp mưa sa”,… Thuý kiều
“Thông minh vỗn sẵn tính trời, Pha mùi thi hoạ đủ mùi ca ngâm”, nhưng cơ bản
vẫn là công phu luyện rèn học hỏi nghệ thuật. Nếu không có mười lăm năm lưu
lạc, tiếng đàn của Kiều cũng chỉ đơn sắc, đơn âm, không biểu cảm chút nào. Cái
vốn trần ai lữ thứ đã làm cho tiếng đàn của nàng đa sắc điệu, giàu tình điệu
thẩm mĩ. Nhưng muốn có “tay tiên“ nghệ thuật, sự thông minh, công phu học hỏi
là chưa đủ để hình thành một phong cách độc đáo. Bởi “phong cách không là vấn
đề kĩ thuật mà là vấn đề nghệ thuật” (M. Proust), phong cách là vấn đề tâm hồn.
Và thế là Nguyễn Du lại gặp Viên Mai ở điểm này. Viên Mai nghĩ về
hai phẩm chất của thơ là phải “chân” và “hoạt”. Và ông chỉ ra: “Nếu ngòi bút
linh hoạt, thì việc trung, hiếu, tiết, nghĩa vẫn có sinh khí, nếu ngòi bút cứng
đờ, thì dù vịnh con gái trong phòng khuê vẫn thiếu tình tứ” hay “Tất cả thơ văn
đều cần chữ đứng trên giấy, không thể để chữ nằm trên giấy”. Đúng là thơ cần
chữ đứng trên giấy chứ không cần chữ nằm, ngồi uốn éo làm duyên.
Nhà thơ cần làm
cho chữ “đứng trên giấy” và nội dung của thơ phải là: “hứng, quan, quần, oán”
như quan niệm của Khổng Tử (Thi khả dĩ hứng, khả dĩ quan, khả dĩ quần, khả dĩ
oán). Thơ không thể “ôn, nhu, đôn, hậu” như Thẩm Đức Tiềm quan niệm. Nhà thơ
đem nhịp điệu tâm hồn của mình biến hoá thành nhịp nhạc của thơ. Viên Mai đã
khẳng định: “Thơ cũng như lời nói, miệng lưỡi không rõ, lắp bắp lắm lời thì
càng nhiều càng đáng ghét”, bởi “thơ có thanh mà không có vần là gạch ngói
vậy”, “ Cũng trước thuật, nhưng văn thì viết ra còn thơ thì ngâm thành” (Đồng
nhất trước thuật, văn viết tác, thi viết ngâm).
Một bài thơ mà chữ “đứng trên giấy” đòi hỏi
nhà thơ phải có cá tính, phong cách. Viên Mai tâm niệm, nhà thơ muốn có phong
cách, muốn tránh tình trạng “không tìm đâu ra mình cả” trong sáng tác thì: “lúc
thường không một phút nào được xa rời cổ nhân, lúc hạ bút thì không được lúc
nào có mặt cổ nhân cả. Lúc thường có cổ nhân để học vấn được sâu sắc, lúc hạ
bút vắng cổ nhân thì tâm thần mình mới xuất
hiện”. Và ông nhấn mạnh, nhà thơ
có phong cách là biết đề “cái Tôi” của mình vào thi phẩm: “Làm thơ thì cần có
cái ta. Không có ta trong thơ thì thành ra lời phô diễn, góp nhặt hết cả của
người”.
Thơ có ta là thơ
không chấp nhận lặp người và lặp lại mình: “ Phải lấy việc làm nảy ý mới, bỏ
lời cũ làm hàng đầu”. Viên Mai từng tự
hào và dặn lòng khi viết thơ làm văn: “Tự lấy nước mùa thu rửa sạch đôi mắt.
Một đời không chịu để người xưa lừa” (Song nhãn tự tương thu thuỳ tẩy. Nhất
sinh bất thụ cổ nhân khi ). Nguyễn Du cũng vậy. Và đó là điều các nhà văn ngày
nay tâm niệm: văn chương là sáng tạo, sáng tạo theo quy luật của cái đẹp; nhà
thơ sáng tạo bằng con mắt, lỗ tai, tâm hồn, trí tuệ, tài năng và bằng cá tính
của chính mình.
Trên đây là những
suy nghĩ bước đầu về Nguyễn Du và Viên Mai qua quan niệm về nhà thơ. Nhưng dù
sao người viết vẫn có thể khẳng định rằng, một khi những ai nặng lòng với văn
chương và một đời nguyện sống cho văn chương thì dù cách xa thời gian, ngăn trở
vạn nẻo đường; họ vẫn gặp nhau. Họ vẫn lưu lại với đời bằng “thốn tâm thiên
cổ”. Nguyễn Du Và Viên Mai là một trong những trường hợp tiêu biểu chăng?
Hoàng
Dục
11
- 2002
Bài viết của thầy hay quá. Học sinh chuyên Văn chúng em lại có thêm một tư liệu bổ ích. Thầy có facebook không ạ? Mong thầy chia sẻ để chúng em học hỏi thêm ạ!
Trả lờiXóaCám ơn lời khen của em. Đây là những chuyên đề thầy biên soạn để dạy bồi dưỡng. FB của thầy là duc hoang.
XóaEm cảm ơn thầy nhiều lắm ạ, em đã theo dõi blog từ những bài đầu lúc em còn khá nhỏ, giờ em học đội tuyển em quay lại tim mấy bài hay của thầy ��
Trả lờiXóaCám ơn em. Mong em tìm được những điều bổ ích.
Xóa