Từ lâu, thơ Nguyễn Khuyến là một đối tượng nghiên cứu của lịch sử văn
học, phê bình văn học và lí luận văn học. Riêng về mảnh đất thi pháp học về tác
giả, Giáo sư Trần Đình Sử cũng đã có bài
nghiên cứu về nhà thơ Tam nguyên Yên Đỗ đăng trong tập sách “Thế giới
nghệ thuật thơ” của ông. Bài viết của giáo sư Trần Đình Sử có tính chất
khoa học sâu sắc và có ý nghĩa như là bước định hướng về việc nghiên cứu sâu
rộng hơn tác giả Nguyễn Khuyến đối với những ai quan tâm đến tác gia văn học
trung đại này.
Riêng với tôi, là người chập chững nghiên cứu “Thi pháp học”,
bài viết ấy đã gợi mở, dẫn dắt tôi nghiên cứu bước đầu thi pháp thơ Nguyễn
Khuyến. Vì đây là một bài thực hành nghiên cứu, cho nên tôi không tìm hiểu thi
pháp thơ Nguyễn khuyến với tất cả những phạm trù thi pháp của nó, mà chỉ xoay
quanh những phạm trù: quan niệm nghệ thuật về con người, không - thời gian nghệ
thuật mà thôi. Đó là lí do tại sao tôi đặt tên cho bài thực hành của mình là: “Thơ
Nguyễn Khuyến, từ quan niệm nghệt thuật về con người đến không-thời gian nghệ
thuật”.
Văn học nói chung và thơ trữ tình nói
riêng luôn lấy con người làm đối tượng thẩm mĩ. Do vậy, con người trong văn học
không đồng nhất với con người trong thực tế hay khái niệm con người mà là quan
niệm về con ngươì một cách nghệ thuật và thẩm mĩ. Quan niệm nghệ thuật về con
người trong văn học là xem nhà văn, nhà thơ đã miêu tả, lí giải, quan niệm về
con người như thế nào thông qua thế giới nghệ thuật và hệ thống các phương tiện
thể hiện phù hợp của mình.
Như vậy, quan niệm nghệ thuật về
con người của một tác giả văn học nào đó vừa thể hiện ở nội dung tư tưỏng và
hình thức nghệ thuật của tác phẩm văn chương, vừa mang nét riêng của cá thể
sáng tạo vừa có những nét chung của thời đại, dân tộc. Tìm hiểu quan niệm nghệ
thuật về con người trong thơ Nguyễn Khuyến chính là quan tâm những bình diện đã
nói trên.
Quan niệm nghệ thuật về con người trong thơ
Nguyễn Khuyến:
Trước hết, là một nhà thơ của văn học trung đại Việt Nam, nên quan
niệm nghệ thuật về con người của Nguyễn Khuyến không vượt ra khỏi phạm trù thi
pháp này của thơ ca thời đại ông. Thơ ông vẫn có: Con người vũ trụ lấy thiên
nhiên làm chuẩn mực của cái đẹp, con người của lí tưởng thẩm mĩ phong kiến và
con người siêu cá thể của nghệ thuật thơ ca. Tuy nhiên, nếu đi sâu tìm tòi, ta
vẫn thấy Nguyễn Khuyến Vẫn có một quan niệm riêng.
Quan niệm nghệ thuật về
con người trong thơ Nguyễn Khuyến:
Nguyễn Khuyến trong thơ vẫn thể hiện quan niệm thẩm mĩ về con người của thơ ca
trung đại.
“Vẫn
lăm chí xông pha trời thẳm
Đâu
phải là điều én, sẻ bay”
(Vân ngoại bằng đoàn)
Đây là con người có tầm vóc vũ trụ.
Con người ấy luôn luôn ấp ôm ước mơ, hoài bão, lí tưởng kẽ sĩ Nho học.
“Những
ước mơ được thời, cơn gió cả
Chút
vui thôi cũng vượt muôn trùng”
(Hí thuỷ Thanh đình)
Con người thân danh mà chuẩn mực là
trung quân:
“Ơn
vua chưa chút đền công
Cúi
trông thẹn đất, ngửa trông thẹn trời”
(
Ngày xuân dặn con cháu )
Thế nhưng,
sau khi “Quy khứ lai từ” về Yên Đỗ, nhà thơ đã có một quan niệm nghệ
thuật về con người rất khác rất lạ với trước đó. Về náu mình ở chốn quê vùng
chiêm trũng Hà Nam
với tâm thế và tư thế “Đời loạn đi về như hạc độc”, nhà thơ khám phá sự
trống rỗng của con người của thời đại nước mất bấy giờ. Chính vì thế, trong thơ
mình ông đã trưng ra hình tượng nghệ thuật những con người trống rỗng, những
con người sống một cách vô nghĩa giữa thời đại trống vắng lí tưởng, một thời
đại mà lí tưởng cũ không còn có giá trị gì còn lí tưởng mới thì cũng không thấy
tăm dạng ở đâu.
Con người trống rỗng là con người
nhận thức đựoc giá trị của tài năng, nhưng không biết đem tài năng của mình đặt
để ở đâu ! Con người ấy cảm thức mình còn kém thua cả những sự vật vô tri giác:
“Khối
tuôn mặt nước tàu lao vút
Đá
lở sườn non pháo nổ tung
Đời
có thi thư thành vật bỏ
Trời
sinh nước lửa được người dùng.”
(
Cảm sự)
Nguyễn Khuyến
nhận thức rõ sự vô tích sự của vốn học vấn, cái được xem như là tinh tuý nước
nhà và là giá trị của con người trí thức phong kiến. Ông không như một ai đó “hoài
tài bất ngộ” mà nhận thức giá trị của thực tài. Cái nhìn ấy khám phá được
bản chất thực của con người thời Nguyễn mạt.
“Sách vở ích gì cho buổi ấy,
áo xiêm nghĩ lại thẹn thân già.”
(
Ngày xuân dạy con cháu)
Con người trống rỗng nên âm thầm ôm
nỗi buồn cô đơn, nỗi đau bất lực và cảm nghe sự bất an đang dậy lên trong tâm
hồn mình. Con người ấy cảm thức rõ sự lật nhào của mọi giá trị trong thời đại
mình. Ngay cả ông trời cũng rỗng không, bất lực để “dì Oa vá váy vào”
khiến “Da tao xanh ngắt pha đen trắng” ( Trời nói), thậm chí
trời cũng dung tục tầm thường nữa; huống gì vua quan !
“Vua
chèo còn chẳng ra gì
Quan
chèo bôi nhọ khác chi thằng hề”
(
Lời vợ phường chèo )
Trong hoàn cảnh đó làm sao con người
không khỏi hoài nghi chính mình:
“Trăm
chén hình tặng ảnh
Nghìn
năm ta là ai ?”
( Đề ảnh
)
“Một
giấc hoàn lương thôi cũng mộng
Nghìn
năm bay hạc, tớ là ai ?”
( Bài muộn II )
một khi họ ý thức sự trống rỗng của
Nho học:
“Rõ
chú hoa man khéo vẽ trò
Bỡn
ông mà lại dứ thằng cu.”
( Vịnh tiến sĩ giấy I )
“Ghế
tréo lọng xanh ngồi bảnh choẹ
Nghĩ
rằng đồ thật hoá đồ chơi.”
( Vịnh tiến sĩ giấy II )
Không còn
con người vũ trụ, chẳng còn con người lí tưởng Nho học mà chỉ con con người
trống rỗng. Cho nên, con người đời thường cũng chẳng tốt đẹp gì hơn. Trong thơ
với cái nhìn sâu sắc tận ngọn nguồn bản chất con người thời đại, Nguyễn Khuyến
đã trưng ra trên bề mặt trang thơ của mình hình tượng những con người gia tộc
và con người xã hội đang có sự băng hoại mọi giá trị đạo đức và rỗng toang rỗng
tuếch về tâm hồn và lí trí Những con người ấy đã phá hoại vẻ đẹp tình nghĩa,
một trong những hằng số văn hoá Việt Nam.
Anh con rễ phúng điếu ông nhạc thì: “Khi
ông sống, ông đẻ anh, ông đẻ chị, ông đẻ vợ tôi, nay được sáu tuần thêm tám lẽ,
/ Giờ ông chết, ông bỏ cửa, ông bỏ nhà, ông bỏ bà lão, ai ngờ một phút hoá trăm
năm”.
Mừng ông lên lão bảy mươi thì:
“Tính ông hay, hay tửu hay tăm, hay nước chè đặc, hay nằm ngủ trưa, dù đã
bảy mươi còn khoẻ mạnh, Nhà ông có, có bầu có bạn, có ván cơm xôi, có nồi cơm
nếp, mở ra một tiệc thấy linh đình”.
Quan hệ giữa người và người là
quan hệ vật chất:
“Muốn êm phải biện ba tăm lạng,
Khéo xếp nên liều một chiếc thoa”
( Kiều bán mình )
Hay:
“Con
ở ngẩn ngơ nhìn mặt chủ,
Nhà thầy tưng hửng mất đồ chơi”
( Mắc tay Hoạn Thư )
Con người kí cóp keo bẩn làm nát vụn tâm hồn
mình:
"Thôi cũng đừng nên kí cóp nữa,
Mà mang tiếng dại với phường ngông”
( Nước lụt hỏi thăm bạn )
Con người lo toan hạn hán, mất mùa, nước lụt, nợ nần:
"Phần thuế quan thu, phần trả nợ,
Nửa thuê đứa ở nửa thuê bò”
( Nhà nông than thở ).
Cho dù họ nhẫn nại, nhận phận thì số phận vẫn không mỉm
cười với họ; ngược lại càng nhấn sâu thêm họ vào vòng eo nghèo túng quẫn.
“Quản
chi công nợ là bao
Nay đã lên to đến thế nào
Lãi mẹ lãi con sinh đẻ mãi
Chục ba chục bảy tính nhiều sao”
( Than nợ ).
Công nợ trả chưa xong thì lại phải
rối bời trước thiên tai:
“Quai Mễ Thanh Liêm đã lụt rồi
Làng ta thôi cũng lụt mà thôi”
( Nước lụt Hà Nam ).
Nguyễn Khuyến đã lí giải và đưa ra trong thơ
mình một quan niệm con người mới mẻ. Con người lí tưởng thì trống rỗng, con
người đời thường thị bị quay mòng mòng trong vòng đen tối của đồng tiền thiên
tai. Tuy vậy, trong cái nhìn nghệ thuật về con người của nhà thơ vẫn ánh lên
niềm tin về bản chất tốt đẹp của con người.
Đáng quý ở đây là, dù thế nào đi nữa con
người ấy vẫn mãi là con người dân tộc. Con người lặng lẽ giữa chốn thu quê nhà
để cảm nghe sắc thu, gió thu, nhạc thu, hồn thu đất nước trong “Năm gian nhà
cỏ thấp le te” ( Thu ẩm ). Con người cũng rất mộng mơ thả hồn nương theo bầu
trời thu xanh ngắt, hoà nhịp cùng “lá vàng trước gió khẽ đưa vèo” (Thu điếu),
chập chờn chấp chới cùng “đóm lập loè” nơi ngõ tối giữa đêm sâu.
Con người dân tộc là con người trọng tình. Có lẽ thế mà ta không ngạc
nhiên gì khi con người trong thơ Nguyễn Khuyến là con người thấm đẫm tình cảm
bè bạn quê hương:
“Anh em làng xóm xin mời cả
Xôi bánh trâu heo cũng gọi là
Chú Đáo xom đình lên với tớ
Ông Từ xóm chợ lại cùng ta”
(Cảnh lên lão).
Con người mà sự sống và cái chết bao
giờ cũng không chia lìa cách bức với quê hương:
“Sống được tiếng trên đời trọn
vẹn
Chết lại gần quê quán hương thôn
Cho hay nên muốn sự vuông tròn
Quan tài còn đó chết chôn ngại gì ?”
(
Di chúc ).
“Vườn
Bùi chốn cũ
Năm mươi năm lẩn thẩn lại về đây
Trông ngoài sân đua nở mấy chồi cây
Thú khâu hác lâm tuyền âu cũng thế.”
(Mua nhà cũ của ông Bùi ).
Và cũng không bao giờ đánh mất tình
cảm gia đình:
“Bấm đốt con ta đường vào Huế
Hôm nay, chắc đã quá đèo Ngang”.
Hay:
“Bảng vàng bia đá nghìn thu tiếc con
người ấy
Tóc bạc da mồi trăm tuổi, thiệt lắm con ơi !”
Không và thời gian nghệ thuạt:
Không gian
nghệ thuật là hình tượng không gian trong tác phẩm, là không gian trong quan
niệm của tác giả.Rõ hơn,
trong tác phẩm văn học, con người xuất hiện với tư cách hình tượng con người,
thì không gian được tạo dựng trong tác phẩm là hình tượng không gian. Không
gian nghệ thuật là hình thức tồn tại của hình tượng con người trong tác phẩm
văn học. Muốn
hiểu hình tượng nghệ thuật con người phải gắn hình tượng ấy với không gian nghệ
thuật mà nó tồn tại. Không gian nghệ thuật là cánh cửa để người đọc hiểu hình
tượng tư tưởng của chính tác giả.
Không gian nghệ thuật trong thơ Nguyễn
Khuyến:
Không gian thơ Yên Đỗ trước hết là không
gian vũ trụ:
Như trên đã nói, con người trong thơ
Nguyễn Khuyến vẫn tiếp nối con người vũ trụ trong thơ phương Đông, vì thế không
gian nghệ thuật trong thơ ông trước hết là không gian vũ trụ. Con người vũ trụ
luôn đứng ở trung tâm vũ trụ với tâm thế vạn vật hoà đồng. Không gian vũ trụ
bao bọc lấy con người và con người luôn ở giữa “Thiên phú địa tải” và tư
thế con người luôn là “Đình thiên lập địa”.
Con người luôn hào hứng tương thông
tương cảm với tròi đất, với thiên nhiên, vạn vật:
“Chùa
xưa ở lẫn cùng cây lá
Sư cụ nằm chung với khói mây”
( Nhớ cảnh chùa Đọi )
Con người hài hoà với thế giới tạo
vật, sống chung cùng tạo vật thiên nhiên. Con người trú ngụ giữa thiên nhiên và
thiên nhiên che chở, sẻ chia nỗi niềm cùng con người:
“Bốn cảnh phong quang cùng tuế nguyệt
Dưới đời tri kỉ mấy mươi tay”
(
Nhân sinh thích chí )
Ngay cả khi con người về với đất
cũng không mất đi mà hiện hữu trong tao vật đất trời:
“Bác Dương thôi đã thôi rồi
Nước mây man mác ngậm ngùi lòng ta”
(
Khóc Dương Khuê )
Con người
dân tộc, con người quê hương chỉ có thể ở giữa lòng dân tộc, sống gắn kết với
quê hương. Cho nên, không gian nghệ thuật trong thơ Nguyễn Khuyến cũng là không
gian làng quê.
Bước vào không gian thơ của nhà thơ ta
như sống giữa một vùng trời đất quen thuộc rất thực đậm sắc quê hương. Đấy là
một khu vườn quê thân thuộc:
“Đã bấy lâu nay bác tới nhà
Trẻ thời đi vắng chợ thời xa
Ao sâu nước cả không chài cá
Vườn rộng rào thưa khó đuổi gà
Cải chửa ra hoa cà chửa nụ
Bầu vừa rụng rốn mướp đương hoa”
(
Bạn đến chơi nhà )
Và khi cáo quan về quê, nhà thơ như
lạc lối trong vườn xưa dâu bể:
“Ngõ trước vườn sau um những cỏ
Vàng phai thắm nhạt ngán cho huê”
(Vào hè)
Yêu nước bất
lựcđến ray rứt cả cõi lòng nên nhà thơ nhìn đâu cũng thấy hoang dại hoang tàn
màu sắc phôi pha mà lòng bồi hồi trầm tư.
+ Bầu trời thu, cái ao thu, ngõ quê tre
trúc, hàng giậu trước cửa,… ba bài thơ thu “Thu vịnh, thu ẩm và thu điếu”.
Không gian thơ là một không gian hẹp đóng khép sau luỹ tre xanh. Con người chỉ
lặng lờ chuyển động trong cái không gian nhỏ hẹp ấy:
“Mặt nước mênh mông nổi một hòn
Tiếng già nhưng núi vẫn là non”
( Chơi núi An Lão )
Nhà thơ dạo bước và lặng ngắm quê
nhà trên núi An Lão, ông cảm thấy mình như đang đắm chìm trong chất thơ, chất
mơ màng của cảnh vật quê nhà yêu thương:
“Chom chỏm trên sông đá một hòn
Nước tràn sóng vỗ biết bao mòn”
(
Chơi chùa Non Nước )
Hay:
“Chiếc bóng lưng trời am các quạnh
Mảnh bia thuở trước bể dâu đầy
Le te nghìn xóm quanh ba mặt
Lố nhố muôn ông lẫn một thầy”
(
Chơi núi Long Đọi ).
Không gian
có hồn nhưng tĩnh lặng, nhuốm màu sắc tâm hồn và cảm xúc nghệ sĩ. Khác với
không gian trừu tượng, mang tính ước lệ trong thơ trung đại trước ông hay thơ
Đường, không gian thơ của Nguyễn Khuyến là cái làng quê được ngắm nhìn từ một
tâm hồn gắn bó, nặng lòng quê hương và rung động thơ của thi nhân. Không gian
trong thơ ông bình đạm, yên ắng nhưng vẫn phập phồng sự sống và đa chiều.
“Dặm thế ngõ đâu tầng trúc ấy
Thuyền ai khách đợi bến đâu đây
Chuông trưa vẳng tiếng người đâu biết
Trâu thả sườn non ngủ gốc cây”
(Nhớ cảnh chùa Đọi )
“Cũng
có lúc chơi nơi dặm khách
Tiếng suối nghe róc rách lưng đèo”
(Khóc Dương Khuê)
“Đìu hiu cảnh quạnh đường bên thượng”
( Chơi núi An Lão )
“Dở trời mưa bụi còn hơi rét
Nếm rượu tường đình được mấy ông
Hàng quán người về nghe xao xác
Nợ nần năm trước hỏi lung tung”
( Chợ đồng )
“Bóng thuyền thấp thoáng dờn trên vách
Tiếng sóng long bong lượn trước nhà”
(
Vịnh lụt )
Không gian làng quê trong thơ Nguyễn Khuyến
tràn đầy màu sắc ánh sáng. Nguyễn Khuyến cảm thức không gian qua các giác quan
của một trí tuệ sắc sảo và tâm hồn nghệ sĩ tinh tế. Không gian làng quê trong
thơ ông vì thế mà như một bức hoạ đồng quê tràn đầy màu sắc và ánh sáng.
Nguyễn Khuyến
thường phết lên không gian cảnh vật những gam màu lạnh và nhạt:
”Mấy chùm trước giậu hoa năm
ngoái”.
(Thu vịnh)
Đây là màu sắc
vàng. Màu lạnh và nhạt thường thấy trong tranh thuỷ mặc. Màu cảm xúc mơ màng và
nhuốm tình điệu bâng khuâng man mác.
“Nước biếc trông
như tầng khói phủ”
(
Thu Vịnh )
Hay: “Lưng giậu phất phơ màu khói nhạt”
( Thu ẩm)
Và: “Ngõ trước vườn sau um những cỏ
Vàng phai thắm nhạt ngán cho huê ).
(
Vườn Bùi chốn cũ )
Có khi bức tranh linh hoạt đổi màu từ sáng đến tối hoặc
nửa sáng nửa tối gây cảm giác mơ hồ, nhưng lột tả những biến thái tinh vi trong
tâm hồn nhà thơ. Tâm hồn nhà thơ như chông chênh giữa đôi bờ hư thực
“Năm gian nhà cỏ thấp le te
Ngõ tối đêm sâu đóm lập loè
Lưng giậu phất phơ màu khói nhạt
Làn ao lóng lánh ánh trăng loe”
( Thu vịnh ) .
Giữa gam màu nhạt
ánh sáng u trầm, nhà thơ chen ngang, điểm và nét loè loẹt, đậm sáng khiến bức
tranh linh hoạt, có hồn nhưng ý nghĩa nghệ thuật là gây cảm giác nỗi buồn lan
thấm vào cảnh vật. Đó là chiếc lá vàng thu, ánh trăng loe, đóm lập loè trong
những bài thơ thu:
“Làn áo lóng lánh ánh trăng loe
Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt”
(Thu ẩm )
“Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo
Tầng mây lơ lững trời xanh ngắt”
(Thu điếu )
Bức tranh thêm màu
sắc xa xôi, huyền ảo. Có khi ánh sáng và màu sắc lung linh đầy ấn tượng:
“Tiếng sáo vo ve chiều nước vọng
Con thuyền len lỏi bóng trăng trôi”
(Nước lụt )
Thời gian
nghệ thuật lả hình tượng thời gian được sáng tạo nên trong tác phẩm. Thời gian
nghệ thuật là thời gian trong tính quan niệm của nhà văn không đồng nhất với
thới gian vật lí, tự nhiên khách quan. Thời gian khách quan là phạm trù triết
học: một chiều, một hướng, một vận tốc. Thời gian nghệ thuật chuyển động vô
hướng, nhiều chiều, nhiều vận tốc; khác trường tâm lí sáng tạo chủ quan, có
tính quan niệm của tác giả (còn gọi là thời gian tâm lí). Thời gian nghệ thuật
là hình tượng nhà văn dùng để phản ánh đời sống. Thời gian luôn được biểu hiện
qua không gian.
Vì thế,
trong tác phẩm văn học, thời gian nghệ thuật gắn liền với không gian nghệ
thuật, nhất là trong thơ trữ tình. Trong thơ trữ tình cảm thức không thời gian
lẫn vào nhau, soi chiếu cho nhau tạo nên tư tưởng và tình cảm thơ. Thời gian
trừu tượng không gian cụ thể, cho nên chỉ có thể cảm nhận thời gian nghệ thuật
trong mối liên kết với không gian nghệ thuật.
Thời gian nghệ thuật trong thơ Nguyễn
Khuyến:
Tương ứng
với không gian nghệ thuật và quan niệm con người đã trình bày trên, trong thơ
Nguyễn Khuyến vẫn tồn tại một thời gian vũ trụ và thời gian đời thường.
- Thời gian chảy trôi
miên viễn:
“Nghĩ lại bực cho dòng nước chảy,
Đi đâu mà chảy cả ngày đêm”
(Chơi chùa Long Đội )
Thời gian kí ức hoài
niệm. Nhà thơ hoài niêm về một thời vàng son của triều đại phong kiến:
“Khắc
khoải sầu đưa giọng lửng lơ
Ấy hồn Thục đế chết bao giờ
Năm canh máu chảy đêm hè vắng
Sáu khác hồn tan bóng nguyệt mờ
Có phải tiếc xuân mà đứng gọi
Hay là nhớ nước vẫn nằm mơ”
(
Cuốc kêu cảm hứng )
Có khi là đứng giữa thời gian thực
tại mà nhà thơ quay tìm trong dòng quá khứ hình bóng đẹp đẽ, lộng lẫy của đất
nước và một thuở bình an của chính tâm hồn mình:
“Mấy
chùm trước gậu hoa năm ngoái
Một tiếng trên không ngỗng nước nào”
(
Thu vịnh )
"Ngọn gió đông ngoảnh lại lệ đầm
khăn
Tình thương hải tang điền qua mấy lớp”
( Mua nhà cũ vườn Bùi )
- Thời gian
thực tại: Con người trong thơ Nguyễn Khuyến là con người quê kiểng và cũng là
con người đời thường. Nhà thơ cũng thoát khỏi những lo lắng của thực tại cuộc
sống như những người dân quê khác:
“Năm
nay cày cấy vẫn chân thua
Chiêm mát đằng chiêm mùa mất mùa”
( Chốn quê )
Ở đây, thời gian trần thuật trùng với thời
gian sự kiện: “Bạn bè lớp trước nay còn mấy Chuyện cũ mười phần chín chẳng
như”hay:
“Trong
nhà rộn rịp gói bánh chưng
Ngoài cửa bi bô rủ chung thịt”
Thời gian
có khi đang xen, ranh giới giữa quá khứ
hiên tại và tương lai rất mơ hồ.Đấy là trường hợp bài thơ “Khóc Dương Khuê”
hay “Thu ẩm”.
Trên đây, là sự vận dụng “Thi
pháp học” vào nghiên cứu thi pháp một tác giả. Qua thơ Nguyễn Khuyến, chúng
ta thấy rõ ông đã tạo dựng được một phong cách riêng, một quan niệm nghệ thuật
về con người riêng và một không – thời gian nghệ thuật riêng đề con người nghệ
thuật ấy tồn tại. Con người trong thơ ông là con người trống rỗng, con người
dân tộc và con người bất an. Không gian trong thơ ông là không gian vũ trụ và
không gian làng quê đầy yên ắng, nhiều ánh sáng, màu sắc và ấm áp yêu thương.
Thời gian trong thơ ông rất nhiều chiều tạo nên cái nhìn nghệ thuật đa chiều
kích về thế giới nội tâm của con người trong thơ ông.
Tuy nhiên, do chỉ tìm hiêu ba phạm
trù của thi pháp học và cũng do đây chỉ là một bài vận dụng nên vẫn chưa khám
phá hết vẻ đẹp nội dung và hình thức thơ Nguyễn Khuyến; chưa nói đến những gì
đã khám phá chưa sâu sắc. Hạn chế ấy cũng là tất nhiên. Hy vọng rằng, trên lĩnh
vực nghiên cứu văn học Việt Nam, một ngày không xa nào đó, sẽ có những công
trình nghiên cứu thi pháp thơ Nguyễn Khuyến đầy đặn hơn, khoa học hơn.
Hoàng
Dục
10
- 2002
TÀI
LIỆU THAM KHẢO:
1. Trần Đình Sử: “Dẫn
luận thi pháp học”, Nxb Giáo dục, HN, 1998.
2. Trần Đình Sử: “Thi
pháp thơ Tó Hữu”, Nxb Tác phẩm mới, HN, 1987.
3. Trần Đình Sử: “Thi
pháp Truyện Kiều” Nxb Giáo Dục, HN,
2000.
4. Trần Đình Sử: “Thế
giới nghệ thuật thơ”, Nxb Giáo Dục, HN, 1993.
5. Nguyễn Huệ Chi: “Thi
hào Nguyễn Khuyến đời và thơ”,
Nxb
Khoa học xã hội , HN 1992.
6. Hà Như Chi: “Việt Nam
thi văn giảng luận”, Nxb Sống Mới,
Sài Gòn, 1974.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét