nghe nồng nàn màu đất đỏ ba zan
tô nỗi nhớ phố trên ngàn heo hút
chiều thị trấn con dốc dài Krông Buk
khói mù sương che khuất vạt nương xa
ngày tàn rơi tia nắng xế nhạt nhòa
lòng cũng xế như cõi đời hiu quạnh
gót lang bạt chí phiêu hồ nung náu
tuổi thanh xuân chôn chặt khối u tình
cố đèo bồng theo đuổi bả hư vinh
chợt nhìn lại thấy mình xây mộng huyễn
hồn cô quạnh mơ tình thân bằng hữu
cho ta về vòng tay ấm anh em
biển với sông hội ngộ dậy triều lên
nhk
Đọc một bài thơ đôi khi người ta chả nhớ tên người làm thơ, tên bài thơ; người ta chỉ nhớ những câu thơ chuyên chở được tâm tình của mình. Có người cho đó là hạnh phúc của người thưởng thức thơ và đó là sự bất hạnh của người làm thơ. Thực ra cũng không nên quá rạch ròi, thậm chí có một cái nhìn tráng màu không vui như thế. Có nhà thơ xuất bản vài chục tập thơ nhưng những tập thơ ấy mãi ngủ vùi sau bức màn bụi thời gian trên giá sách cũ xì. Có người chỉ “xuất xưởng” một bài thơ nhưng đã nhanh chóng trở thành thi phẩm, nó bám những ngón tay thơ mềm mại mà rất chắc vào tâm hồn người đọc. Sáng tác văn chương hay đúng hơn nghề văn nó nghiệt ngã như thế đó. Có bài thơ hay cả bài, nhưng cũng có bài thơ hay một số câu. Nhưng quan trọng không phải là hay mà có tạo được sự đồng điệu với người đọc mọi thời không ? Dù chỉ là một người đọc. Phải chăng đó là trường hợp tôi với bài thơ Nguyễn Hùng Kiện ?
Viết đến đây bỗng nhớ đến các nhạc sĩ trong Paris by night số 83. Qua đĩa nhạc, các nhạc sĩ đã tâm tình hết sức giản dị mà đầy xúc động. Nhạc sĩ Xuân Tiên chỉ ao ước người đời nhớ một bản nhạc của ông thôi, đó là “Khúc hát ân tình” (còn có tên là “Tình Bắc duyên Nam”). Nhạc sĩ Thanh Sơn bồi hồi, mong sao mọi người chỉ nhớ đến một bài hát, chỉ một là quý lắm rồi, bài “Nỗi buồn hoa phượng” của ông. Còn Nguyễn Ánh 9 thì hi vọng người ta có thể quên tất cả sáng tác của ông, nhưng mong cầu họ đừng bao giờ quên bài hát “Cô đơn” do ông sinh thành. Tâm tình của các nhạc sĩ ấy cũng là tâm tình chung của giới hoạt động nghệ thuật. Qua đó mới thấy, người nghệ sĩ lắm lúc chỉ là “Dã Tràng xe cát biển đông – Nhọc lòng mà chẳng nên công cán gì”!!! Và mới thấy, sáng tác nghệ thuật là một “trò chơi” tinh thần nhiều khi chẳng thăng hoa người sáng tạo, ngược lại đày ải họ vào nỗi đau khổ và cô đơn.
Trở lại với bài thơ Nguyễn Hùng Kiện, tôi không nhớ đọc bài thơ này ở đâu, thậm chí cũng chả biết gọi tên nó là gì. Tôi chỉ tình cờ đọc ở đâu đó thôi, nhưng lại là sự tình cờ của trăm năm. Nói theo chữ Bùi Giáng, Báng Giùi trong lời tựa bản dịch tiểu thuyết “Khung cửa hẹp” của André Gide thì không phải “nghi ngẫu” mà là “định mệnh” trong sự gặp gỡ giữa tôi với bài thơ của Hùng Kiện hay với Hùng Kiện cũng được. Sở dĩ phải nói như thế, vì tôi và Kiện đều là dân Đà Nẵng, cùng ngồi một lớp B2 dưới mái trường Trung học Phan Châu Trinh, cùng xăn xái chung tay làm đặc san Hướng dương của lớp ngày nào,... Sau đó, Kiện học Sài Gòn, dân đếm tiền; tôi học Huế, kẻ mò chữ; thế mà lại lên công tác cùng một xứ, cái xứ Buôn Hồ nơi núi rừng Tây Nguyên xa xanh kia. Vậy thì cuộc gặp gỡ ấy ai dám nói là nghi ngẫu nào? Cho nên, khi đọc bài thơ Nguyễn Hùng Kiện, ngay từ dòng thơ đầu tôi tưởng Kiện nói hộ lòng tôi, đã làm tôi nhớ Buôn Hồ đến lạ. Cái từ “nồng nàn” của Kiện khiến hồn tôi hình như cũng dậy lên men “nồng nàn màu đất đỏ Bazan” của một thời THPT Krông Buk. Cái từ ấy xui tôi “nồng nàn” nhớ cái thứ đất bazan cao nguyên đến da diết. Từ đó, hai khổ thơ đầu cứ xoay xoáy trong trí nghĩ tôi, đã thức dậy trong tôi hồi ức về một thời trên miền đất đỏ cao nguyên ấy và hình ảnh Hùng Kiện ngày xưa và hôm nay.
nghe nồng nàn màu đất đỏ bazan
tô nỗi nhớ phố trên ngàn heo hút
chiều thị trấn con dốc dài krông Buk
khói mù sương che khuất vạt nương xa
Ôi chao, cái thứ đất gì mà vừa dễ ghét vừa đáng yêu quá đỗi. Cho nên, chẳng lạ gì khi Kiện dùng tính từ “nồng nàn” mà gọi tên cảm xúc của mình về cái màu đất ấy. Và gọi cái màu đất ấy “tô nỗi nhớ phố trên ngàn heo hút”. Tôi không hiểu bài thơ này làm ở thời điểm nào, nhưng qua ngôn từ thì cũng võ đoán được. Có lẽ tứ thơ đã hình thành khi Kiện lên Đắc Lắc, về công tác ở ngân hàng huyện Krông Buk năm 1976. Ấn tượng về vùng đất lần đầu bén duyên với nghiệp công chức ấy là thứ đất đỏ bazan chăng. Chắc là thế, vì thứ đất ấy đã chuyển hoá thành nỗi nhớ sau này Kiện hạ sơn về lại với phố thị quê hương. Nếu không thế thì sao lại “tô nỗi nhớ phố trên ngàn”. Chữ “tô” có nhiều cách hiểu, nhưng với tôi, “tô” là làm cho hình ảnh sự vật có màu sắc, làm dày lên cái đang có, hay bồi đắp sự vật ấy có ấn tượng mãnh liệt, sâu sắc hơn. Như thế, nỗi nhớ Buôn Hồ đã có, bây giờ được đánh thức dậy bằng thứ đất đỏ “nồng nàn” tạo nên thi tứ mà thôi. Với tôi, tôi cũng “nghe nồng nàn màu đất đỏ bazan”, nhưng thấy đất bazan vừa dễ ghét vừa dễ thương. Màu bazan sao mà dễ ghét quá. Bởi cái màu gì đâu mà cứ làm ố đỏ đi những chiếc áo trắng học trò, làm biến màu trang giáo án của người thầy, bít những lổ chân lông của lá khiến những chiếc lá xanh tưởng chừng không thở được,… Cái màu bazan khiến “phố trên ngàn” trở nên heo hút hơn trong mắt của những con người miền xuôi lần đầu lên núi rừng Tây Nguyên. Nhớ ngày đầu lên Đắc Lắc, nhìn lên cái màu đất ấy phủ dày trên lá cà phê, lá cao su; nhìn xuống lá bắp, lá đậu nhuốm đỏ hoà cùng những thảm cỏ màu xanh xao mà nao lòng. Bỗng nhiên nhớ cái màu quan tái trong thiên phú biệt li của Nguyễn Du: “Người lên ngựa kẻ chia bào – Rừng phong thu đã nhuốm màu quan san” (Kiều). Và rất nhớ sắc “Mòn mỏi” đóng váng ở con mắt ngóng tình quân của thiếu phụ trong thơ Thanh Tịnh:
Em ơi, nhẹ cuốn bức rèm tơ
Tìm thử chân mây khói toả mờ
Có bóng tình quân muôn dặm ruổi
Ngựa hồng tuôn bụi cõi xa mơ.
Tôi ngờ rằng những dòng thơ này Kiện viết theo hoài niệm về những buổi chiều, ngồi ở sân ngân hàng mà nhìn thị trấn Buôn Hồ. Ngôi trường tôi dạy nằm cùng phía đồi với ngân hàng của Kiện làm. Có điều trường cấp II và III Krông Buk nhìn ra quảng đường nhựa phẳng ngang, còn ngân hàng thì phải đối mặt với quảng dốc dài, dốc phía bên này chạy lên Buôn Ma Thuột, phía bên kia đổ về Thuần Mẫn rồi Pleiku. Quảng dốc dài ấy choáng tầm mắt nên chả thấy “phố trên ngàn” mà chỉ thấy “khói mù sương che khuất vạt nương xa”. Với lại, nói phố trên ngàn cho sang vậy thôi, chứ sự thật chỉ một quảng đường 14 ngắn củn, hai bên có hai dãy nhà thế thôi. Âu đó cũng là một chút lãng mạn làm chất men để yêu và để sống. Tôi cũng thế. Những buổi chiều tàn, tôi cùng một số đồng nghiệp ngược lên dốc dài kia đứng ngắm trời đất. Rồi buông thả bước chân về khu nội trú để cơm chiều. Những lúc ngắm trời đất như thế, cái màu quan san cứ ám ảnh tôi, đến nỗi nghẹn lòng vì giấc hương quan:
Thân không là lính chiến
Sao không về cố hương
Cho nên tôi hiểu tại sao Kiện viết:
ngày tàn rơi tia nắng xế nhạt nhoà
lòng cũng xế như cõi đời hiu quạnh
Hai câu này hình như mâu thuẫn với khổ thơ trên. Ở khổ thơ trên bức tranh thiên nhiên hiện ra thật đáng yêu, cho dù “phố trên ngàn heo hút” đi nữa, thì khổ thở này thiên nhiên tàn tạ và lòng người cũng quạnh hiu. Do đó, con người trong thơ muốn bỏ lại sau lưng tất cả để:
hồn cô quạnh mơ tình thân bằng hữu
cho ta về vòng tay ấm anh em
Tôi cũng thế đã bỏ lại sau lưng những giấc mộng huyễn để về làm một anh giáo quèn giữa phố đời nhốn nháo. Cũng như Kiện làm việc trong một nhà in nơi chốn quê. Nhưng thế mà vui. Và tôi biết bây giờ Kiện cũng đang vui vì quanh tôi, quanh Kiện ngoài những thâm tình khác có thêm thân tình bằng hữu mà trong đó là tình bằng hữu thời Phan Châu Trinh ấy, nhất là những ngày làm Kỉ yếu 40 năm – cựu học sinh Phan Châu Trinh Đà Nẵng, khoá 1964-1971 mà cảm nghe: “Biển với sông hội ngộ dậy triều lên”.
Dù vui nhưng và tôi và Kiện đều nhớ về cái đất đỏ bazan đáng yêu chứ không còn đáng ghét của Buôn Hồ nữa. Vào mùa mưa, đất nơi đây cứ bám lấy chân người da diết như thầm nhắc: Người ơi người ở đừng về. Chúng tôi đành lỗi hẹn, biết làm sao được. Chúng tôi mỗi người có một cảnh đời riêng mà, chỉ có điều trong lòng chúng tôi mãi vang lên khúc hát ân tình: “nghe nồng nàn màu đất đỏ bazan” của “phố trên ngàn heo hút” của một thời trai trẻ. Phải không Nguyễn Hùng Kiện?
1-8-2011
tô nỗi nhớ phố trên ngàn heo hút
chiều thị trấn con dốc dài Krông Buk
khói mù sương che khuất vạt nương xa
ngày tàn rơi tia nắng xế nhạt nhòa
lòng cũng xế như cõi đời hiu quạnh
gót lang bạt chí phiêu hồ nung náu
tuổi thanh xuân chôn chặt khối u tình
cố đèo bồng theo đuổi bả hư vinh
chợt nhìn lại thấy mình xây mộng huyễn
hồn cô quạnh mơ tình thân bằng hữu
cho ta về vòng tay ấm anh em
biển với sông hội ngộ dậy triều lên
nhk
Đọc một bài thơ đôi khi người ta chả nhớ tên người làm thơ, tên bài thơ; người ta chỉ nhớ những câu thơ chuyên chở được tâm tình của mình. Có người cho đó là hạnh phúc của người thưởng thức thơ và đó là sự bất hạnh của người làm thơ. Thực ra cũng không nên quá rạch ròi, thậm chí có một cái nhìn tráng màu không vui như thế. Có nhà thơ xuất bản vài chục tập thơ nhưng những tập thơ ấy mãi ngủ vùi sau bức màn bụi thời gian trên giá sách cũ xì. Có người chỉ “xuất xưởng” một bài thơ nhưng đã nhanh chóng trở thành thi phẩm, nó bám những ngón tay thơ mềm mại mà rất chắc vào tâm hồn người đọc. Sáng tác văn chương hay đúng hơn nghề văn nó nghiệt ngã như thế đó. Có bài thơ hay cả bài, nhưng cũng có bài thơ hay một số câu. Nhưng quan trọng không phải là hay mà có tạo được sự đồng điệu với người đọc mọi thời không ? Dù chỉ là một người đọc. Phải chăng đó là trường hợp tôi với bài thơ Nguyễn Hùng Kiện ?
Viết đến đây bỗng nhớ đến các nhạc sĩ trong Paris by night số 83. Qua đĩa nhạc, các nhạc sĩ đã tâm tình hết sức giản dị mà đầy xúc động. Nhạc sĩ Xuân Tiên chỉ ao ước người đời nhớ một bản nhạc của ông thôi, đó là “Khúc hát ân tình” (còn có tên là “Tình Bắc duyên Nam”). Nhạc sĩ Thanh Sơn bồi hồi, mong sao mọi người chỉ nhớ đến một bài hát, chỉ một là quý lắm rồi, bài “Nỗi buồn hoa phượng” của ông. Còn Nguyễn Ánh 9 thì hi vọng người ta có thể quên tất cả sáng tác của ông, nhưng mong cầu họ đừng bao giờ quên bài hát “Cô đơn” do ông sinh thành. Tâm tình của các nhạc sĩ ấy cũng là tâm tình chung của giới hoạt động nghệ thuật. Qua đó mới thấy, người nghệ sĩ lắm lúc chỉ là “Dã Tràng xe cát biển đông – Nhọc lòng mà chẳng nên công cán gì”!!! Và mới thấy, sáng tác nghệ thuật là một “trò chơi” tinh thần nhiều khi chẳng thăng hoa người sáng tạo, ngược lại đày ải họ vào nỗi đau khổ và cô đơn.
Trở lại với bài thơ Nguyễn Hùng Kiện, tôi không nhớ đọc bài thơ này ở đâu, thậm chí cũng chả biết gọi tên nó là gì. Tôi chỉ tình cờ đọc ở đâu đó thôi, nhưng lại là sự tình cờ của trăm năm. Nói theo chữ Bùi Giáng, Báng Giùi trong lời tựa bản dịch tiểu thuyết “Khung cửa hẹp” của André Gide thì không phải “nghi ngẫu” mà là “định mệnh” trong sự gặp gỡ giữa tôi với bài thơ của Hùng Kiện hay với Hùng Kiện cũng được. Sở dĩ phải nói như thế, vì tôi và Kiện đều là dân Đà Nẵng, cùng ngồi một lớp B2 dưới mái trường Trung học Phan Châu Trinh, cùng xăn xái chung tay làm đặc san Hướng dương của lớp ngày nào,... Sau đó, Kiện học Sài Gòn, dân đếm tiền; tôi học Huế, kẻ mò chữ; thế mà lại lên công tác cùng một xứ, cái xứ Buôn Hồ nơi núi rừng Tây Nguyên xa xanh kia. Vậy thì cuộc gặp gỡ ấy ai dám nói là nghi ngẫu nào? Cho nên, khi đọc bài thơ Nguyễn Hùng Kiện, ngay từ dòng thơ đầu tôi tưởng Kiện nói hộ lòng tôi, đã làm tôi nhớ Buôn Hồ đến lạ. Cái từ “nồng nàn” của Kiện khiến hồn tôi hình như cũng dậy lên men “nồng nàn màu đất đỏ Bazan” của một thời THPT Krông Buk. Cái từ ấy xui tôi “nồng nàn” nhớ cái thứ đất bazan cao nguyên đến da diết. Từ đó, hai khổ thơ đầu cứ xoay xoáy trong trí nghĩ tôi, đã thức dậy trong tôi hồi ức về một thời trên miền đất đỏ cao nguyên ấy và hình ảnh Hùng Kiện ngày xưa và hôm nay.
nghe nồng nàn màu đất đỏ bazan
tô nỗi nhớ phố trên ngàn heo hút
chiều thị trấn con dốc dài krông Buk
khói mù sương che khuất vạt nương xa
Ôi chao, cái thứ đất gì mà vừa dễ ghét vừa đáng yêu quá đỗi. Cho nên, chẳng lạ gì khi Kiện dùng tính từ “nồng nàn” mà gọi tên cảm xúc của mình về cái màu đất ấy. Và gọi cái màu đất ấy “tô nỗi nhớ phố trên ngàn heo hút”. Tôi không hiểu bài thơ này làm ở thời điểm nào, nhưng qua ngôn từ thì cũng võ đoán được. Có lẽ tứ thơ đã hình thành khi Kiện lên Đắc Lắc, về công tác ở ngân hàng huyện Krông Buk năm 1976. Ấn tượng về vùng đất lần đầu bén duyên với nghiệp công chức ấy là thứ đất đỏ bazan chăng. Chắc là thế, vì thứ đất ấy đã chuyển hoá thành nỗi nhớ sau này Kiện hạ sơn về lại với phố thị quê hương. Nếu không thế thì sao lại “tô nỗi nhớ phố trên ngàn”. Chữ “tô” có nhiều cách hiểu, nhưng với tôi, “tô” là làm cho hình ảnh sự vật có màu sắc, làm dày lên cái đang có, hay bồi đắp sự vật ấy có ấn tượng mãnh liệt, sâu sắc hơn. Như thế, nỗi nhớ Buôn Hồ đã có, bây giờ được đánh thức dậy bằng thứ đất đỏ “nồng nàn” tạo nên thi tứ mà thôi. Với tôi, tôi cũng “nghe nồng nàn màu đất đỏ bazan”, nhưng thấy đất bazan vừa dễ ghét vừa dễ thương. Màu bazan sao mà dễ ghét quá. Bởi cái màu gì đâu mà cứ làm ố đỏ đi những chiếc áo trắng học trò, làm biến màu trang giáo án của người thầy, bít những lổ chân lông của lá khiến những chiếc lá xanh tưởng chừng không thở được,… Cái màu bazan khiến “phố trên ngàn” trở nên heo hút hơn trong mắt của những con người miền xuôi lần đầu lên núi rừng Tây Nguyên. Nhớ ngày đầu lên Đắc Lắc, nhìn lên cái màu đất ấy phủ dày trên lá cà phê, lá cao su; nhìn xuống lá bắp, lá đậu nhuốm đỏ hoà cùng những thảm cỏ màu xanh xao mà nao lòng. Bỗng nhiên nhớ cái màu quan tái trong thiên phú biệt li của Nguyễn Du: “Người lên ngựa kẻ chia bào – Rừng phong thu đã nhuốm màu quan san” (Kiều). Và rất nhớ sắc “Mòn mỏi” đóng váng ở con mắt ngóng tình quân của thiếu phụ trong thơ Thanh Tịnh:
Em ơi, nhẹ cuốn bức rèm tơ
Tìm thử chân mây khói toả mờ
Có bóng tình quân muôn dặm ruổi
Ngựa hồng tuôn bụi cõi xa mơ.
Tôi ngờ rằng những dòng thơ này Kiện viết theo hoài niệm về những buổi chiều, ngồi ở sân ngân hàng mà nhìn thị trấn Buôn Hồ. Ngôi trường tôi dạy nằm cùng phía đồi với ngân hàng của Kiện làm. Có điều trường cấp II và III Krông Buk nhìn ra quảng đường nhựa phẳng ngang, còn ngân hàng thì phải đối mặt với quảng dốc dài, dốc phía bên này chạy lên Buôn Ma Thuột, phía bên kia đổ về Thuần Mẫn rồi Pleiku. Quảng dốc dài ấy choáng tầm mắt nên chả thấy “phố trên ngàn” mà chỉ thấy “khói mù sương che khuất vạt nương xa”. Với lại, nói phố trên ngàn cho sang vậy thôi, chứ sự thật chỉ một quảng đường 14 ngắn củn, hai bên có hai dãy nhà thế thôi. Âu đó cũng là một chút lãng mạn làm chất men để yêu và để sống. Tôi cũng thế. Những buổi chiều tàn, tôi cùng một số đồng nghiệp ngược lên dốc dài kia đứng ngắm trời đất. Rồi buông thả bước chân về khu nội trú để cơm chiều. Những lúc ngắm trời đất như thế, cái màu quan san cứ ám ảnh tôi, đến nỗi nghẹn lòng vì giấc hương quan:
Thân không là lính chiến
Sao không về cố hương
Cho nên tôi hiểu tại sao Kiện viết:
ngày tàn rơi tia nắng xế nhạt nhoà
lòng cũng xế như cõi đời hiu quạnh
Hai câu này hình như mâu thuẫn với khổ thơ trên. Ở khổ thơ trên bức tranh thiên nhiên hiện ra thật đáng yêu, cho dù “phố trên ngàn heo hút” đi nữa, thì khổ thở này thiên nhiên tàn tạ và lòng người cũng quạnh hiu. Do đó, con người trong thơ muốn bỏ lại sau lưng tất cả để:
hồn cô quạnh mơ tình thân bằng hữu
cho ta về vòng tay ấm anh em
Tôi cũng thế đã bỏ lại sau lưng những giấc mộng huyễn để về làm một anh giáo quèn giữa phố đời nhốn nháo. Cũng như Kiện làm việc trong một nhà in nơi chốn quê. Nhưng thế mà vui. Và tôi biết bây giờ Kiện cũng đang vui vì quanh tôi, quanh Kiện ngoài những thâm tình khác có thêm thân tình bằng hữu mà trong đó là tình bằng hữu thời Phan Châu Trinh ấy, nhất là những ngày làm Kỉ yếu 40 năm – cựu học sinh Phan Châu Trinh Đà Nẵng, khoá 1964-1971 mà cảm nghe: “Biển với sông hội ngộ dậy triều lên”.
Dù vui nhưng và tôi và Kiện đều nhớ về cái đất đỏ bazan đáng yêu chứ không còn đáng ghét của Buôn Hồ nữa. Vào mùa mưa, đất nơi đây cứ bám lấy chân người da diết như thầm nhắc: Người ơi người ở đừng về. Chúng tôi đành lỗi hẹn, biết làm sao được. Chúng tôi mỗi người có một cảnh đời riêng mà, chỉ có điều trong lòng chúng tôi mãi vang lên khúc hát ân tình: “nghe nồng nàn màu đất đỏ bazan” của “phố trên ngàn heo hút” của một thời trai trẻ. Phải không Nguyễn Hùng Kiện?
1-8-2011
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét