Đây
là một chuyên đề bồi dưỡng học sinh giỏi do cá nhân tôi sưu
tầm và biên soạn. Tôi đăng lên đây như là một kỉ niệm một thời
sống cùng các em chuyên văn đáng yêu của tôi.
I. PHẦN MỞ ĐẦU:
1. Văn học Việt Nam thời trung đại phát triển suốt chiều dài mười thế
kỷ xã hội phong kiến. Đây là một thời kỳ văn học có tầm quan trọng đặc
biệt góp phần làm nên diện mạo văn chương, tư tưởng, mỹ học của dân tộc.
2. Bởi thế, nghiên cứu, giảng dạy và thưởng thức văn học trung đại là
đi tìm chiều sâu và bề rộng của tư
tưởng thẩm mĩ đang luân lưư trong
dòng chảy văn chương ấy. Để có thể khám phá, phát hiện một cách khoa
học, đúng bản chất tình cảm thẩm mỹ của bộ phận văn học này, chúng ta
không thể không quan tâm đến vấn đề thi pháp.
II. THI PHÁP CỦA VĂN HỌC TRUNG ĐẠI VIỆT NAM:
A. Đặc trưng thi pháp: hệ thống ưóc lệ thẩm mỹ cổ điển:
1. Ước lệ trong văn học nói chung:
a. Trong đời sống xã hội, ước lệ là một qui ước có tính cộng đồng. Ước
lệ là một tín hiệu riêng của một cộng đồng khi cảm nhận thực tại, làm
cho sự vật và hiện tượng hiện lên đúng với chiều kích qui ước và đúng
với cách hiểu của cả cộng đồng.
b. Văn học nghệ thuật mọi thời, mọi dân tộc bao giờ cũng có tính ước
lệ. Bởi lẽ, văn học không là phiên bản thu nhỏ của hiện thực đời sống,
nhưng bắt nguồn từ mảnh đất thực tại, thanh lọc thực tại qua cái nhìn
nghệ thuật của nhà văn, lăng kính thẩm mỹ của thời đại. Có điều, ước lệ
trong văn học là ước lệ thẩm mỹ có tính qui ước của các nhà văn trong
một thời đại, một dòng văn học nhất định.
2. Ước lệ trong văn học trung đại Việt Nam:
a. Ước lệ, một đặc trưng thi pháp:
- Văn học trung đại, ước lệ được nhà văn sử dụng triệt để, nghiêm
túc và phổ biến. Các nhà văn bao giờ cũng cảm thụ và diễn đạt thế giới
bằng hệ thống nghệ thuật ước lệ. Ước lệ đã trở thành một đặc trưng thi
pháp của văn học.
- Đặc trưng thi pháp này hình thành từ bối cảnh lịch sử xã hội
phong kiến và cảm quan thẩm mỹ của tầng lớp nghệ sĩ Hán học.
Xã hội phong kiến là một xã hội đẳng cấp, lắm nghi thức công thức.
Xã hội bị lễ nghĩa trói buộc, nên văn chương tất phải ước lệ. Tấng lớp
Nho học xem sách xưa, lời nói cuả thánh hiền, người trước là chuẩn mực
thì văn chương không thể không đạt đến những mẫu mực về bút pháp, dùng
từ, xây dựng hình ảnh, hình tượng, sử dụng điển tích, điển cố,... Với
các nhà văn thời này văn chương phải “Văn dĩ tải đạo”, “Thi dĩ ngôn
chí”; sáng tác văn học là hình thức trước thư lập ngôn, nên văn chương
ước lệ mới đẹp, mới sang trọng. Trong tác phẩm, nhà văn càng sử dụng
nhiều nghệ thuật ước lệ chừng nào thì càng uyên áo, càng đẹp; mới thực
hiện được chức năng giáo dục đạo lý của nó; mới góp phần hình thành mẫu
người phong kiến lý tưởng.
b. Ước lệ bao gồm ba tính chất:
- Tính uyên bác và cách điệu hóa cao độ.
- Tính sùng cổ.
- Tính phi ngã.
b.1: Tính uyên bác và cách điệu hóa cao đô:
- Không phải ngẫu nhiên văn học chính thống thời phong kiến được
mênh danh là văn chương bác học (Văn học dân gian gọi là văn học bình
dân). Gọi như thế, văn chương mang trong mình nó tính bác học. Người
sáng tác phải bác học và người tiếp nhận cũng rất bác học. Bởi đây là
loại văn chương phòng khách, trà dư tưủ hậu.
- Văn chưong chính thống thời phong kiến mang tính qui phạm từ góc
độ sáng tác đến thưởng thức. Giới văn học hẹp, chỉ quanh quẩn trong tầng
lớp trí thức Hán học tài hoa, tao nhân mặc khách. Trường hợp Nguyễn
Khuyến và Dương Khuê là một thí dụ tiêu biểu. Độc giả của Nguyễn Khuyến
là Dương Khuê, nên khi bạn văn mất, nhà thơ như muốn gác bút:
Thơ muốn viết đắn đo chẳng viết
Viết đưa ai, ai biết mà đưa ?
- Sáng tác trong môi trường ấy, tất nhiên uyên bác có ý nghĩa thẩm
mỹ. Người sáng tác cũng như người tiếp nhận đều phải thông thuộc kính
sử, điển cố, điển tích; phải có vốn thi liệu, văn liệu phong phú học tập
được từ những áng văn bất hủ của người xưa. Văn chương càng uyên bác
càng có sức hấp dẫn lớn, có tính nghệ thuật cao.
Trước sau nào thấy bóng người
Hoa đào năm ngóai còn cười gió Đông
(Nguyễn Du)
Hay:
Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng
Dân gìau đủ khắp đòi phương.
(Nguyễn Trãi)
- Văn chương của tao nhân mặc khách, nên có khuynh hướng lý tưởng
hóa, “văn chương hóa”, Các nhà văn thời ấy muốn tạo ra một thế giới nghệ
thuật riêng khác với thế giới đời thường. Cho nên, thế giới nghệ thuật
của các trang văn thời này luôn được các nhà văn cách điệu hóa cao độ.
Hình tượng nghệ thuật càng cách điệu hóa càng đẹp.
Quan niệm này đã làm nấy sinh thái độ xem thường văn xuôi,
trong thơ ca. Trong cái nhìn của các nhà văn và độc giả văn học thời
phong kiến, văn xuôi gần với đời sống thực tại, ít được cách điệu hóa;
thơ mới là thứ ngôn ngữ giàu tính cách điệu. Con người trong văn chương
phải đẹp một cách lý tưởng: tóc mây, mày liễu, mặt hoa, tay tiên, gót
sen, vóc hạc,... Cử chỉ, đi đứng, ăn nói tựa như đang sống trong thế
giới của nghệ thuật sân khấu:
Hài văn lần bước dặm xanh
Một vùng như thể cây quỳnh cành dao
Chàng Vương quen mặt ra chào
Hai Kiều e lệ nép vào dưới hoa
(Nguyễn Du)
Tạo vật thiên nhiên đi vào văn chương cũng phải thật sang quý và đẹp như mai, cúc, tùng, bách, liễu,...
Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi
Dặm liễu sương sa khách bước dồn
(Bà Huyện Thanh Quan)
- Nhìn chung, văn chương thời ấy không chú ý tả thực. Tả thực nếu
có, chỉ dùng cho những nhân vật phản diện phàm tục như Mã giám sinh, Sở
Khanh, Tú bà; Bùi Kiệm, Trịnh Hâm:
Thoắt trông nhờn nhợt màu da
Ăn chi cao lớn đẫy đà lám sao ?
(Nguyễn Du)
Con người Bùi Kiệm máu dê
Ngồi thề lê mặt như sề thịt trâu !
(Nguyễn Đình Chiểu)
Thời bấy giờ, người ta quan niệm con người không hòan thiện, hòan mỹ
bằng tạo hóa, không tài hoa bằng hóa công. Vì thế, những gì cần lý tưởng
hóa đều phải được so sánh với thiên nhiên, thiên nhiên trở thành chuẩn
mực cho cái đẹp của con người. Con những tiểu nhân chỉ có thể so sánh
với xác của chúng,mới tả thực.
b.2: Tính sùng cô:
- Do quan niệm thời gian phi tuyến tính, nên trong văn chương cổ
của dân tộc ta, các nhà văn luôn có xu hướng tìm về quá khứ. Họ lấy quá
khứ làm chuẩn mực cho cái đẹp, lẽ phải, đạo đức. Với họ thời đại hòang
kim không có trong thực tại. Thời đại hòang kim chỉ có vào thời Nghiêu,
Thuấn; người anh hùng nghĩa sĩ lý tưởng là Kỷ Tín, Do Vu, Dự Nhượng
(Hịch tướng sĩ văn). Chân lý quá khứ là chân lý có sức sáng tỏa muôn
đời. Vì thế, văn chương thường lấy tiền đề là lý lẽ và kinh nghiệm của
cổ nhân, của lịch sử xa xưa (lập luận trong Quân trung từ mênh tập của
Nguyễn Trãi là một minh chứng).
- Văn học vì vậy mà đầy rẫy những điển tích, điển cố. Mẫu mực của
văn chương cũng như vậy. Thơ ca không ai có thể vượt qua những thi
thánh, thi thần như Lý Bạch, Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị,...
- Chính vì vậy, các nhà văn đời sau thường “tập cổ” vay mượn văn
liệu, thi tứ, hình ảnh nghệ thuật của các nhà thơ, nhà văn đời trước mà
không bị đanh giá là “Đạo văn”. Ngược lại, họ được đánh giá là một cây
bút đạo đức, sang trọng; tác phẩm của họ rất giàu gía trị.
b.3: Tính phi ngã:
- Thời phong kiến, ý thức cá nhân chưa có điều kiện phát triển. Con
người chưa bao giờ “sống là mình”. Con người chỉ sống với không gian mà
không sống cùng thời gian.
Con người được nhìn nhận, đánh giá trên cơ sở của tầng lớp, giai cấp,
dòng tộc, địa vị xã hội. Con người chỉ phân thành hai loại: quân tử và
tiểu nhân. Trong cuộc sống cũng như trong văn chương, yêu đương tự do
khó có thể chấp nhận và không bao giờ đạt được hạnh phúc. Hôn nhân xây
dựng trên cơ sở đẳng cấp, môn đăng hộ đối. Người có văn hóa giáo dục là
người biết khắc kỉ, biết nhún mình, thu mình lại, hạ thấp cái tôi cá
nhân của mình.
- Chính điều kiện xã hội ấy đã sinh ra hệ thống ước lệ trong văn
chương, một ước lệ nghệ thuật có tính phi ngã. Nhà văn cảm thụ và diễn
tả thiên nhiên không bằng cái nhìn hữu ngã và bằng ngôn từ, hình ảnh,
nhịp điệu do cá nhân mình sáng tạo.
Tranh vẽ, thơ vịnh đều có sự quy định theo một công thức nhất định:
tứ quý, tứ linh, tứ thú,... Tạo vật thì phải là xuân lan, thu cúc, hoa
điểu, tùng hạc, con người thì ngư, tiều, canh, mục. Buổi chiều phải có
chim bay về tổ, mục đồng thổi sáo réo rắc ngồi trên mình trâu về thôn
xa, người lữ thứ bước vội trên đường, chùa xa chuông ngân tiếng âm trầm
giục giã khách giang hồ,... Cảnh trăng khuya thì có thuyền gối bãi,
thuyền chở trăng; đêm thì có tiếng dế nỉ non, khoan nhặt, giọt ba tiêu
thánh thót rơi buồn,...
Truyện luôn có nhân vật giai nhân tài tử, trai anh hùng gặp gái
thuyền quyên. Gái đẹp luôn được miêu tả: mặt hoa da phấn, “làn thu thủy
nét xuân sơn”, lưng ong, gót sen; anh hùng thì râu hùm hàm én; đấng
trượng phu, bậc quân tử được ví như cây tùng, cây bách nơi chốn lâm
tuyền, sẽ làm rường cột cho quốc gia,... Cốt truyện thì theo một công
thức định sẵn như: gặp gỡ, ly tán, đòan viên,...
Thơ phải cách luật. Luật phối thanh bằng trắc của thơ phú cũng quy
định nghiêm ngặt, chặt chẽ, khiến cho người làm thơ phải diễn tả thế
giới bằng thính giác có tinh “phi ngã” của cộng đồng tao nhân mặc khách.
Bố cục thơ cũng định sẵn, bất di bất dịch. Ngay cả tiêu đề thơ cũng
quanh quẩn: ngôn hòai, thuật hoài, ngôn chí,...
Người viết văn làm thơ có một kho điển cố, kho thi liệu, văn liệu
chung. Tất cả đều là những hình ảnh, những ngôn từ ước lệ phi ngã. Nói
chuyện tri âm, tri kỉ thì “mắt xanh chẳng để ai vào”, nói tình yêu lỡ dỡ
thì có chuyện Thôi Oanh Oanh, Trương Quân Thụy. Nói người phụ nữ tài
hoa thì ví như nàng Ban, ả Tạ. Cha mẹ là huyên đường, vợ chồng là tao
khang. Nhớ quê hương thì trông áng mây Tần xa xa... Tất cả đều có nguồn
gốc ở trong văn chương cổ Trung Hoa mà người viết văn, làm thơ cũng như
người đọc văn, đọc thơ phải thông thạo.
- Tuy nhiên, nói văn học trung đại có tính phi ngã không có nghĩa
trong tác phẩm văn chương không có dấu ấn bản ngã của người nghệ sĩ. Bởi
lao động nghệ thuật là một họat động sáng tạo; văn học chân chính không
chấp nhận công thức, phi ngã. Trong văn học thời trung đại của dân tộc
ta, các cây bút lớn đều khẳng định tư tưởng, cá tính và tài nghệ độc đáo
của họ. Tiến trình văn học đã khẳng định điều đó. Chúng ta không thể
phủ nhận cá tính sáng tạo của Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Công Trứ,
Cao Bá Quát, Nguyễn Khuyến, Trần Tế Xương, Tản Đà,... Chỉ có điều, do
tính qui phạm nghệ thuật; nên sự khác biệt trong tư tưởng và phong cách
nghệ thuật của các cây bút ấy chỉ là những biến thức khác nhau của sự
vận dụng những chuẩn mực chung của cộng đồng văn học bấy giờ mà thôi.
B. Thiên nhiên trong văn học trung đại:
1. Thiên nhiên có địa vị danh dự trong văn chương:
a. Đi vào vũ trụ văn chương của cha ông xưa, người đọc như được sống
giữa thế giới tạo vật thiên nhiên non nước hữu tình vừa tịch lặng vừa
hòanh tráng. Trong sáng tác của các nhà thơ, nhà văn trung đại hình như
không thể vắng bóng thiên nhiên. Thiên nhiên làm nên diện mạo, linh hồn
của tác phẩm. Thiên nhiên biểu hiện cảm quan vũ trụ, mỹ cảm và tư tưởng
triết học phương Đông của các nghệ sĩ Nho học này.
b. Riêng thi ca, thơ tức cảnh cũng như tranh sơn thủy chiếm một vị trí
hết sức quan trọng trong đời sống văn nghệ thời phong kiến.
- Hiện tượng này có thể bắt nguồn từ xã hội kinh tế nông nghiệp
thô sơ của thời trung đại. Thời ấy con người sống giữa thiên nhiên. Con
người trực tiếp khai thác thiên nhiên bằng bàn tay lao động của mình.
Thiên nhiên là nguồn nuôi dưỡng tinh thần và vật chất cho con người.
Thiên nhiên có mặt trong cuộc sống gia đình, xã hội của cư dân của nền
văn hóa thảo mộc, nền văn minh lúa nước.
- Hiện tượng nghệ thuật này cũng có thể nẩy sinh từ hệ triết học
phương Đông: con người hòa đồng với vạn vật, tạo vật và con người tương
sinh trong thế giới này. Và cũng có thể xuất phát từ đời sống văn hóa
tín ngưỡng Tô-tem hay tín ngưỡng phồn thực phương Đông.
- Hiện tượng này cũng có thể lý giải bằng hệ tư duy tổng hợp Đông
phương, bằng tính cách duy cảm của dân tộc ta. Con người không nhìn nhận
mình là chủ thể mà cảm nhận mình là một yếu tố cùng với thiên nhiên tạo
nên sự sống của thế giới thực tại này. Con người duy cảm nên luôn đắm
mình vào những biến thái mong manh, tinh vi của tạo vật để giao cảm,
giao hòa. Vì vậy, ta hiểu văn chương trung đại thơ ca chiếm một vị trí
quan trọng và trong văn xuôi lại thắm đượm chất thơ, cảm xúc trữ tình.
2. Cảm thụ thiên nhiên trong văn chương trung đại:
a. Vì những căn cứ trên, thiên nhiên không tách khỏi con người như một
khách thể trong văn chương. con người cảm thụ thiên nhiên như là một chủ
thể. Con người đã gán cho thiên nhiên những phẩm chất, thuộc tính của
chính mình. Thiên nhiên chưa được khám phá với những giá trị tự thân,
chưa thực sự là đối tượng hiện thực của văn học. Người ta tìm đến với
thiên nhiên và xem thiên nhiên như là một tư liệu để để ngụ tình hay
giáo huấn đạo đức một cách không tự giác.
Thu ăn măng trúc đông ăn giá
Xuân tắm hồ sen hạ tắm ao
(Nguyễn Bỉnh Khiêm)
Điều này khác với văn chương hiện đại. Văn chương hiện đại tôn trọng sự
sống riêng của tạo vật thiên nhiên. Thiên nhiên được miêu tả như là một
khách thể.
b. Từ tư tưỏng và quan niệm trên, văn chương trung đại đã miêu tả thiên
nhiên theo một bút pháp đặc biệt: không tả hình xác của tạo vật mà gợi
tả linh hồn của thiên nhiên. Thiên nhiên trở thành ý niệm tượng trưng,
dấu hiệu tượng trưng, chứa đựng những cảm giác, cái không thấy của con
người. Thiên nhiên là nơi gởi gắm những tư tưởng, tình cảm hay triết lý
của con người.
Xuân đến trăm hoa nở
Xuân đi trăm hoa rụng
...
Đừng bảo xuân tàn hoa rụng hết
Đêm qua sân trước một nhành mai
(Mãn Giác Thiền sư)
- Thiên nhiên có linh hồn nên cũng sang hèn, quân tử tiểu nhân như
con người. Các nhà thơ xưa không chấp nhận cái thấp hèn, những sự vật
tầm thường nên thiên nhiên trong thơ họ luôn là những tạo vật cao sang.
Các nhà thơ bầu bạn hay tri âm tri kỷ với thiên tao nhã, sang trọng như:
“Sơn thủy yên hoa tuyết nguyệt phong” (Hồ Chí Minh). Họ tự ví mình như
cốt cách phong độ của “Mai, lan, cúc, trúc” hay “Tùng, cúc, trúc, mai”.
Quét trúc bước qua lòng suối
Thưởng mai về đạp bóng trăng
(Nguyễn Trãi)
Hay:
Nghêu ngao vui thú yên hà
Mai là bạn cũ hạc là người thân
(Nguyễn Du)
- Họ đối lập thiên nhiên tao nhã với thiên nhiên phàm tục, tầm thường
cũng là để đối lập họ với những kẻ tiểu nhân, phàm phu đắc thế:
Phượng những tiếc cao diều hãy lượn
Hoa thường hay héo cỏ thường tươi
Hoặc:
Đến trường đào mận ngạt chăn thông
Quê cũ ưa làm chủ trúc thông
(Nguyễn Trãi)
c. Do cảm thụ thiên nhiên như vậy, nên văn thơ có hai đặc tính:
- Thiên nhiên được cảm nhận và tái hiện một cách tinh vi như muốn khám phá linh hồn ẩn kín, bí mật của tạo vật.
Thụy khởi khải song phi
Bất tri xuân dĩ quy
Nhất song bạch hồ điệp
Phách phách sấn hoa phi
dịch thơ:
Ngủ dậy ngó song mây
Xuân về vẫn chửa hay
Song song đôi bướm trắng
Phấp phới sấn hoa bay.
(Xuân hiểu-Trần Nhân Tông)
- Thiên nhiên trong thơ thường được phối màu thanh đạm, đường
nét thanh tao; nhưng thấm chất sống ngồn ngộn tươi rói như thiên nhiên
trong cuộc sống đời thường.
Đồng bằng nhô núi biếc
Hình thế tựa diều bay
Cầu vắt qua khe nước
Chùa nằm tít đỉnh mây
(Đề núi cánh diều-Lê Quý Đôn)
Trăng giục chèo khua sóng
Thanh vắng hứng càng say
Sương dầm hoa tươi tốt
Thu nhuộm núi hao gầy...
(Dạ nguyệt hành chu-Lê Hưũ Trác)
- Thiên nhiên luôn được tái hiện bằng cảm xúc dạt dào, tình
cảm lắng sâu của người làm thơ. Những vần thơ đã trích là một thí dụ.
Đọc những vầng thơ của Trần Nhân Tông, Lê Quý Đôn, Lê Hữu Trác, ta như
nghe thấy hơi thở nhịp điệu tâm hồn của các thi nhân ấy. Thơ của các thi
nhân ấy là tâm hồn sáng láng, nhân cách cao cả, phong thái tự tại của
chính họ giữa chốn đời bụi bặm này.
C.Một thế giới nghệ thuật phi thời gian:
1. Quan niệm thời gian:
a. Con người thời cổ đại và trung đại chưa xem thời gian và không gian
như những phạm trù trừu tượng. Thời ấy, người ta cảm nhận thời gian bằng
sự trực cảm, bằng những tín hiệu không gian, bằng sự vận động của thiên
nhiên và sự sống của con người. Bước đi của thời gian được theo dõi
bằng thời tiết bốn mùa, bằng thời vụ nông tang, bằng sen tàn, cúc nở,
bằng oanh vàng liễu biếc hay tiếng Đỗ quyên kêu.
Thuở đăng đồ mai chưa dạn gió
Hỏi ngày về chỉ độ đào bông.
Hay:
Thuở lâm hành oanh chưa bén liễu
Hỏi ngày về ước nẻo quyên ca.
(Chinh phụ ngâm-Đặng Trần Côn)
b. Từ kinh nghiệm trực cảm, người xưa có hai nhận thức về thời gian:
- Quan sát cận cảnh hằng ngày, nhận thức thời gian tuyến tính một
đi không trở lại. Thời gian tuyến tính vận động mau lẹ, đầy hình ảnh,
đầy màu sắc cụ thể và giàu chất sống. Thời gian tuyến tính là thời gian
của thế giới phàm tục
- Quan sát thế giới từ xa, nhận thức thời gian tuần hòan qua sự tuần
hòan của vũ trụ. Đây là quan niệm thời gian chu kỷ, thời gian quay tròn
không đi mất, động mà tĩnh, ngưng đọng, phi thời gian. Thời gian chu kỷ
là thời gian của cõi trời, cõi tiên, của thế giới thanh cao bất tử.
Trong hai quan niệm thời gian này, người xưa chủ yếu hướng về thời gian
chu kỷ, họ cho rằng thời gian tuyến tính phục tùng thời gian chu kỷ. Vì
vậy, cảnh trong thơ xưa nhìn chung là cảnh ngưng đọng, phi thời gian,
màu sắc đạm bạc giàu ý nghĩa biểu tượng triết lý hơn là hiện thực.
2. Thời gian nghệ thuật:
a. Trong truyện cổ, do cảm giác thời gian tuyến tính và chu kỷ song
hành, nên cốt truyện thường có mô-típ: con người từ cõi trần lên cõi
tiên, rồi từ cõi tiên trở lại cõi trần, từ thời gian tuyến tính đi lên
thời gian chu ky rồi quay về thời gian tuyến tính. Truyện Từ Thức lên
tiên sống với thế giới phi thời gian, sau đó trở về lại cõi trần và thấy
trăm năm đã trôi qua.
b. Trong thơ ca cổ điển, các nhà thơ cũng cấu tứ theo hai ý niệm thời gian như thế. Bài Hoàng Hạc lâu của Thôi Hiệu khẳng định điều đó:
Hạc vàng ai cưỡi đi đâu
Mà nay Hòang hạc riêng lầu còn trơ
Hạc vàng bay mất từ xưa
Ngàn năm mây trắng bây giờ còn bay
(Tản Đà dịch)
Trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm thời gian chu kỷ ngưng đọng biểu đạt lối
sống nhàn tản, bất hòa với cõi nhân gian thế thái:
Thu ăn măng trúc đông ăn giá
Xuân tắm hồ sen hạ tắm ao
Hoặc:
Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ
Người khôn người đến chốn lao xao
Trong thơ Nguyễn Khuyến, thời gian hầu như tĩnh tại đồng hiện, con
người như đóng khung trong thời gian lắm sắc màu lòe lọet, nhịp điệu trì
trệ ấy mà cảm nghe sự bất lực của một kẻ sĩ vong quốc:
Năm gian nhà cỏ thấp le te
Ngõ tối đêm sâu đóm lập lòe
Lưng giậu phất phơ màu khói nhạt
Làn ao lóng lánh bóng trăng loe
(Thu ẩm)
D. Quan niệm con người trong văn chương trung đại:
1. Con người vũ tru:
a. Thời trung đại, con người và thiên nhiên tạo vật được nhìn nhận là
một khối thống nhất. Con người là một tiểu vũ trụ luôn tìm về hội nhập
cùng đại vũ trụ. Con người vì thế luôn quan hệ với vũ trụ.
- Chính quan niệm này đã chi phối quan niệm nghệ thuật về con người trong văn chương: con người vũ trụ.
- Con người vũ trụ thể hiện qua một thi đề phổ biến của thơ trữ
tình: con người giao cảm, đối diện đàm tâm với tạo vật vũ trụ, có kích
thước vũ trụ.
+ Con người khi gặp oan khuất, chỉ có trời đất thấu hiểu.
Xanh kia thăm thẳm từng trên
Vì ai gây dựng cho nên nỗi này
(Chinh phụ ngâm-Đặng Trần Côn)
+ Khi thề nguyền keo sơn gắn bó thì núi sông chứng giám lòng thành
thủy chung. Khi xử thế lánh đục tìm trong, vong bần lạc đạo, con người
tìm về chốn lâm tuyền, cùng bầu bạn với gió trăng. Khi nhập thế thì rồng
mây gặp hội.
+ Tầm vóc con người được đo theo chiều kích sông núi:
Hoành sóc giang sơn cáp kỉ thu
Tam quân tỳ hổ khí thôn Ngưu
(Thuật Hòai-Phạm Ngũ Lão)
Hay:
Vòng trời đất dọc ngang ngang dọc
Nợ tang bồng vay trả trả vay
Chí làm trai nam bắc đông tây
Cho phỉ sức vẫy vùng trong bốn bể
(Nguyễn Cổng Trứ)
+ Người đẹp là người sánh ngang với sự hòan mỹ của vũ trụ và khiến trời đất cũng ghét ghen:
Làn thu thủy nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh
(Kiều- Nguyễn Du)
Hoặc:
Chìm đáy nước cá lờ đờ lặng
Lửng lưng trời nhạn ngẩn ngơ sa
(Cung óan ngâm-Nguyễn Gia Thiều)
b. Con người vũ trụ luôn ứng xử theo quy luật tuần hòan của vũ trụ, âm
dương tiêu trưởng. Tư tưỏng đó là thiên mệnh. Thấm nhuần tư tưởng trên,
nên người quân tử “xuất xư”, “hành tàng” một cách ung dung thanh thản:
gặp tai biến không lo sợ sầu não, gặp vận may không vui mừng đắc chí. Họ
luôn sống theo khái niệm “Thời”, theo qui luật: bĩ tắc thái, cùng tắc
thông. Trong văn chương xưa, ta thường thấy hình ảnh con người sống theo
đạo trời, bước đi cùng tạo hóa. Họ khoan thai, ung dung, hòa mình vào
thiên nhiên; thậm chí muốn nhập hẳn vào vũ trụ:
Trên đồi có thông
Muôn dặm biếc mông lung
Ta thảnh thơi nằm ngủ bên trong
(Nguyễn Trãi)
2. Con người đạo đức:
a. Thời cổ-trung đại, Người ta chưa phân biệt được tâm và vật. người ta
gán tâm cho vật. Vạn vật khách quan đều có tính chủ thể. Thời gian,
không gian đều có xấu tốt, độc lành. Tòan bộ xã hội được nhìn nhận trong
một hệ thống tôn giáo - đạo đức nhất định tùy theo từng khu vực văn
hóa.
b. Văn
chương theo đấy mà phản ánh xã hội không phải ở bình diện khách quan mà
chủ yếu theo quan niệm đạo đức, luân lý. Nhân loại phân hóa thành hai
cực đạo đức và phi đạo đức. Nhân vật trong tiểu thuyết cũng phân hóa
thành hai tuyến: thiện và ác, chính và tà, trung và nịnh, quân tử và
tiểu nhân. Chủ đề đạo đức, khuynh hướng giáo huấn có tính phổ biến đối
với các loại tiêu thuyết, cổ tích thời trung đại:
Trai thời trung hiếu làm đầu
Gái thời tiết hạnh làm câu trau mình.
(Nguyễn Đình Chiểu)
c. Văn chương không nhằm mục đích nhận thức hiện thực mà chỉ để chuyên
chở đạo lý, đấu tranh cho đạo lý. Chức năng giáo dục của văn học được
đặt lên hàng đầu. Vì vậy, Các truyện Nôm đều kết thúc có hậu. Văn chương
gần như minh họa cho đạo đức, khẳng định triết lý: Ở hiền gặp lành, ở
ác gặp dữ; khuyên con người tích thiện, hành thiện.
Ai ơi lẳng lặng mà nghe
Dữ răn việc trước, lành dè thân sau
(Nguyễn Đình Chiểu)
Hay:
Thiện căn ở tại lòng ta
Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài
(Nguyễn Du)
d. Nhìn chung, con người trung đại quan niệm thế giới có tính chất
lưỡng nguyên. Họ cho rằng, cõi trần gian tội lỗi và cõi trời cao cả
thánh thiện. Hướng về cao cả, thánh thiện; nên văn chương thường thiên
về cái đẹp phi vật chất, phi tính dục, phi thân xác. Hình tượng văn học
chủ yếu được xây dựng bằng thị giác, thính gíác. Hình tượng vị giác,
nhất là xúc gíac bị xem là thô tục, phi mỹ học.
3. Con người phi cá nhân:
a Trong văn học thời trung đại, con người cá nhân chưa được quan niệm
rạch ròi và xây dựng thành một hình tượng nghệ thuật. Đây là một vấn đề
có cơ sở xã hội của nó. Xã hội phong kiến, về phương diện kinh tế, không
dựa trên nền tảng cá nhân. Do vậy, con người chưa được nhìn nhận như
một cá nhân cá thể ý thức. Giá trị cá nhân không được xem xét từ bản
thân phẩm chất cá nhân mà ở vai trò của cá nhân trong mối quan hệ giai
tầng.
b.
Chính vì thế, trong văn chương, từ ứng xử đến tâm tư; từ tình yêu đôi
lứa đến tình yêu nước,... tất cả đều theo một chuẩn mực chung của đẳng
cấp.
-
Nhân vât trong các truyện Nôm đều là những nhân vật sắm vai, nghĩa là
họ diễn các vai trò mà xã hội giao cho với những nghi thức áp đặt bên
ngoài.
- Tình yêu cũng đầy nghi thức. Tình yêu kị sĩ, tình yêu của giai nhân tài tử đều có những nghi thức riêng.
c. Như vậy, thời phong kiến trung đại, con người cá nhân chưa được giải
phóng về nhiều phương diện. Con người sống đồng trục, đồng dạng về tư
tưởng tình cảm. Con người xuất hiện trong văn chương với mối quan hệ
tình và nghĩa; nhưng không có màu săc cá nhân.
d. Từ đó, những thủ pháp nghệ thuật miêu tả nội tâm nhân vật trong tác
phẩm cũng giống nhau. Các nhà văn thường sử dụng hành vi bên ngoài và
những dấu hiệu thân xác để diễn tả tâm tư nhân vật. Trần Hưng Đạo giận
quân xâm lược thì “nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa”.
Kiều Nguyệt Nga thủy chung với Lục Vân Tiên thì họa hình người mình yêu
mà mang theo trên đường công Phiên. Thúy Kiều lo nghĩ, nhớ thương đến
héo hon, sầu não thì “khi vò chín khúc, khi chau đôi mày”.
Thủ pháp thể hiện tâm lý nhân vật là thủ pháp ngoại hiện. Nhân vật vì
vậy lúc nào cũng động đậy, không bao giờ chịu ngồi yên trầm tư. Tiểu
thuyết, vì thế nặng về sự kiện và cốt truyện hơn là khai thác tâm lý
trực tiếp. Trong truyện không có ngôn ngữ nhân vật mà chỉ có lời phụ đề
trữ tình của tác giả hay lời của tác giả đặt vào miệng các nhân vật, bắt
nhân vật nói hộ mình. Do vậy, nhân vật thiếu cá tính, tính cách. Nhân
vật nếu có tính cách thì tính cách cũng rõ ràng, đơn giản và bất biến.
4. Con người ý thức:
a. Những vấn đề quan niệm về con người trình bày ở trên là xét về đại
thể, xét trong một giai đọan văn học từ thế kỉ X-đầu thế kỉ XVIII. Trong
thực tiễn đời sống văn học, ở tác giả này, ở tác phẩm kia không phải là
không có con người cá nhân ý thức về cái tôi của mình. Nhất là ở giai
đọan cuối thế kỷ XVIII.
b. Xã hội phong kiến Việt Nam cuối thế kỷ XVIII rơi vào tình trạng
khủng hỏang sâu sắc. Mọi chân giá trị của xã hội bị đảo lộn hay băng
hoại. Đây cũng là thời đại khởi nghĩa của nông dân. Chính từ điều kiện
xã hội ấy, ý thức cá nhân bắt đầu trỗi dậy. Con người cá thể cảm thấy bị
trói buộc nặng nề phi lý của đạo lý, của lễ giáo phong kiến, của hệ
thống ước lệ thẩm mỹ phong kiến.
c. Trong đời sống văn học, nhiều tác phẩm có tính chất phản phong xuất
hiện như Cung óan ngâm khúc, Truyện Kiều; nhiều tác giả dõng dạc khẳng
định cái tôi của mình như Hồ Xuân Hương, Phạm Thái, Cao Bá Quát, Nguyễn
Công Trứ,...
c1 - Có thể đơn cử thơ Hồ Xuân Hưong để minh chứng cho điều đã nói ở
trên. Hồ Xuân Hương là nữ sĩ đã đưa cái tôi của mình vào thơ, đã trưng
ra cá tính nổi lọan trên những trang viết của mình. Hồ Xuân Hương đã làm
vỡ tung hệ thống ước lệ nghiêm ngặt của văn học trung đại.
Trong thơ Hồ Xuân Hương, những gì gọi là hiền nhân quân tử đều bị phàm
tục hóa, đời thường hóa. Họ cũng chẳng sang quý gì mà cũng mỏi gối chồn
chân, đã mỏi gối chồn chân nhưng vẫn cố trèo “Đèo Ba dội”, cũng mụ mị
ngắm nhìn “Cá giếc le te lội giữa dòng”, cũng:
Trai đu gối hạc lom khom cật
Gái uốn lưng ong ngữa ngữa lòng.
(Đánh đu)
Hồ Xuân Hương đã lên tiếng đòi hỏi hạnh phúc cá nhân, hạnh phúc cho
người phụ nữ “Làm lẽ”. Nữ sĩ đã đem hạnh phúc ấy mà xô lệch cái thế giới
nghệ thuật trang nghiêm, đạo mạo của các đấng, bậc Hán học; để khẳng
định một chất nhân văn mới, một hình thức nghệ thuật mới cho thơ.
Qủa cau nho nhỏ miếng trầu hôi
Này của Xuân Hương đã quệt rồi
Có phải duyên nhau thì thắm lại
Đừng xanh như lá bạc như vôi.
(Mời trầu)
Hồ Xuân Hương đã lấy trực cảm nghệ thuật mà khám phá và tái hiện tạo
vật thế giới, xây dựng nên một vũ trụ thơ ca ngồn ngộn sắc màu, thanh
âm, đường nét sống động, tươi rói sự sống. Đấy là một thế giới bộc lộ
trọn vẹn tình cảm của nữ sĩ:
Trước nghe những tiếng thêm rầu rĩ
Sau giận vì duyên để mỏm mòm
Tài tử văn nhân ai đó tá ?
Thân này đâu đã chịu già tom !
(Tự tình I)
c2- Cũng có thể thấy ở thơ Nguyễn Công trứ con người cá nhân ý thức.
Nguyễn Công Trứ chủ trương hưởng lạc để khẳng định bản thể của cá nhân.
Hưởng lạc là sự tự khẳng định cá nhân mình trong thời gian hữu hạn. Do
vậy, ta hiểu vì sao nhà thơ không dùng khái niệm “Trăm năm” mà dùng “Ba
vạn sáu nghìn ngày”. Nhưng cần phải thấy rõ, hưởng lạc của Nguyễn Công
Trứ nằm trong phạm vi thể hiện cái tài tình của cá nhân: “Bài ca ngất
ngưỡng” hay:
Chen chúc lợi danh đà chán ngắt
Cúc tùng phong nguyệt mới vui sao
hoặc:
Được mất dương dương người tái thượng
Khen chê phơi phới ngọn đông phong
Nhìn chung, với Nguyễn Công Trứ, ý thức cá nhân được khẳng định với ba
phạm trù: công danh, cái nhàn hưởng lạc và cái ta hơn người, cái riêng
tư tự hào, tự cho là đủ. Tất cả tạo nên một con ngươi cá nhân trong thơ
hài hòa, tự tin, phong lưu, tự do, đứng trên mọi sự tính tóan được mất
khen chê. Đấy là bước phát triển cao nhấy của ý thức cá nhân mang nội
dung phong phú, hài hòa trong văn học Việt Nam thời trung đại.
Phải chăng con người ý thức cá nhân cá thể của văn học giai đọan này sẽ
là tiền đề cho sự tiếp nối và phát triển con người cá nhân trong văn
chương giai đọan sau này, khi có sự hội nhập với nền văn hóa phương Tây
hiện đại ?
III. KẾT LUẬN:
1. Trên đây là những vấn đề thi pháp của văn học trung đại Việt Nam.
Những vấn đề này được khám phá và biện giải trên cơ sở lịch sử: ý thức
xã hội, chính trị, tôn giáo, nghệ thuật,... chứ không hòan tòan dựa vào
thành tựu của thi pháp học hiện đại của Bakhtin.
2. Những vấn đề trình bày trên do cá nhân tôi sưu tầm và biên soạn,
nên có thể chưa thực đầy đủ về thi pháp của văn học Việt Nam thời trung
đại, nhưng đó là những cơ sở để tiếp cận với văn học giai đọan này.
Mong rằng những gì đã được biên soạn sẽ phần nào có ích cho việc bồi
dưỡng học sinh giỏi văn. Người biên sọan mong được sự góp ý của các đồng
nghiệp.
Hoàng Dục
1-2000
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét